Tất cả nông trường Tân Lâm đều
gọi Mùi và Hoa là "hai con chim cu cu". Hễ rảnh
việc ra là chúng quấn quýt với nhau suốt
ngày. "Còn chần chừ đến bao giờ mới
cho chúng tao ăn kẹo hử?" Thấy tình yêu
của chúng đã chín nõm rồi nên ai cũng giục,
cũng nhắc nhở.
Mùi và Hoa yêu nhau thật. Cứ nhìn vào mắt
chúng thì biết. Như lửa. Bốn con mắt
ấy quấn lấy nhau như chả cần biết
có ai xung quanh chúng nữa.
Mùi là lái xe tải cho nông trường. Hoa là
công nhân trồng tiêu. Tình yêu làm cho Hoa cứ đẹp
rực lên. Hai má lúc nào cũng như hai trái đào
chín nấp dưới cặp mắt long lanh. Mùi chỉ
cười. Ai nói gì cũng cười. Cái cười
rạng rỡ.
Chiều nay, trên vạt cỏ xanh mịn màng bên
bờ sông Hiếu, Hoa ngồi hơi co cặp chân
tròn vo, mềm ấm cho Mùi gối đầu. Cô hơi
cúi đầu, chăm chú nặn trứng cá cho
Mùi. Mùi ngoan ngoãn như một con mèo trong lòng cô. Họ
cũng không biết câu chuyện của họ bắt
đầu từ đâu. Lâu lắm, lâu lắm,
Mùi quàng hai tay lên đầu Hoa vít xuống thấp.
Anh thì thầm:
- Chúng mình cưới nhau đi.
Hoa im lặng. Mắt như lơ đãng đâu
đâu. "Chúng mình cưới nhau đi Hoa. Anh sẽ
làm hết sức, không để cho em khổ đâu".
Cũng khá lâu Hoa mới đáp:
- Em cũng muốn chúng mình cưới nhau. Em
cũng muốn chúng mình có con nữa. Nhưng... em
lo...
Nhất định anh sẽ không để cho mẹ
con em khổ đâu mà. Nhất định thế.
Em còn lo gì?
Hoa chưa từng trải. Cô nói rất thật
lòng rằng cứ trông ba đứa em của Mùi,
Hoa rất sợ. Cứ mỗi lần có việc phải
về nhà Mùi, mắt cô không dám nhìn kỹ vào mấy
đứa em quái thai của Mùi. Thằng Bi như một
đống thịt. Cả hai chân, hai tay teo lại
như không có xương. Suốt ngày nằm một
chỗ. Mỗi khi cho ăn phải có người
đỡ sau lưng mới ngồi được.
Con Lài có đủ chân tay, nhưng cái quái thai lại
từ trong não. Không lúc nào nó nằm yên. Cứ lăn
qua, lăn lại liên tục. Có lúc nó đập
đầu xuống giường rầm rầm. Cái
Thuý nhỏ nhất nhưng lại cứng cáp nhất.
Nó ngồi được. Nhưng không đứng
lên được. Không đi được. Muốn
đứng phải có người đỡ. Mà
đôi mắt Thuý lúc nào cũng trợn ngược,
vô hồn.
Hoa nói:
- Em nghe người ta nói rằng, trong đám con
chiên nữ của thiên chúa giáo nhiều cô rất
giống đức mẹ. Vì người mẹ suốt
ngày ngắm nhìn tơ tưởng tới đức
mẹ. Em sợ suốt ngày em sống với Bi, với
Lài, với Thuý, biết đâu lúc em sinh con, chúng cũng
bị dị dạng như cô, chú chúng.
Những đứa em Mùi hiện ra trong đáy mắt
anh. Mùi như thấy chúng đang ngồi trước
mặt. Hoàn toàn đúng như Hoa nói. Cái cảm
giác chết lặng dâng đầy hồn anh. Thấy
Mùi như người mất hồn, Hoa phải lay
cho anh tỉnh dậy:
- Em yêu anh lắm. Anh có yêu em không?
Mùi lấy lại được hồn:
- Anh sống không thể thiếu em được
đâu.
Mặt trời phía Tây thấp dần. Nắng
vàng nhạt đi. Như cũng đọng trong nắng
hoàng hôn nỗi buồn của cả hai người.
Hoa đã tìm ra cách:
- Cha em đã mua được đất trong
Đồng Nai rồi. Những mấy héc ta. Chúng
mình vào đó. Em làm vợ anh. Không cần cưới
xin gì cũng được. Vợ chồng mình sẽ
xin cha một héc ta đất. Như thế chúng
mình sẽ đẻ được những đứa
con nguyên lành. Em sẽ gắng làm để nuôi
anh, nuôi con. Người Quảng Trị mình không sợ
khó khăn, gian khổ đâu anh.
Mùi im lặng. Anh nhắm mắt lại. Sao hai con
mắt tự dưng chói thế. "Em sẽ làm vợ
anh mà". Câu nói ấy của Hoa cứ ong ong trong
óc Mùi.
Mùi dắt xe đạp tới cổng nhà, anh
nghe từ trong nhà tiếng thét vọng ra. "Đúng
là tiếng con Lài". Mùi dựng xe chạy vào
nhà. Một cảnh tượng quặn thắt
đập vào mắt anh. Bà nội anh ôm con Thuý
trên tay phải, tay trái vỗ về thằng Bi, giường
góc trong cả cha và mẹ Mùi hai người
đang cố giữ Lài, trong lúc đó Lài vật
vã, giãy giụa, thét xé giọng. Cha Mùi bình tĩnh
hơn, còn mẹ Mùi vừa giữ con vừa nước
mắt đầm đìa. Chợt nhớ thằng
Ngọc nhà bác Ngà bệnh tình cũng như Lài, cũng
cùng tuổi Lài mới chết cách đây 5 ngày,
Mùi thấy xót xa trong lòng như có ai xát muối
vào. Mùi chạy tới giúp mẹ. Nửa tiếng
sau cái Lài mới nằm yên.
Mùi hỏi cha:
- Có phải đưa em đi bệnh viện không
ba?
- Thỉnh thoảng em lại lên một cơn
như vậy - Cha anh đáp - Có đem đi bệnh
viện cũng chẳng được gì.
Mỗi một ngày qua đi ở gia đình là một
ngày Mùi kiểm nghiệm lại đề nghị
của Hoa. Anh cứ băn khoăn: "Không biết
có phải mình quá yêu Hoa nên độ nghiêng về
Hoa mỗi lúc một cao?". "Không, đó là một
sự thật. Một sự thật hiển
nhiên".
Tình cờ bữa mẹ Mùi đứng trước
gương, lấy lược cào lại mái tóc
cho gọn gàng, Mùi nói:
- Mẹ vất vả quá!
Mẹ Mùi cũng tình cờ nói với anh:
- Con đến tuổi rồi, cũng nghĩ
đến chuyện lấy vợ đi cho mẹ
đỡ vất vả.
Phải một tuần sau Mùi mới đủ sức
kể cho mẹ nghe tất cả ý kiến và đề
nghị của Hoa. Mới nghe, bà Bình - mẹ Mùi
bàng hoàng. Nỗi bàng hoàng của người mẹ
cảm thấy mình bị con bỏ rơi. Nhưng
dần dần bình tĩnh lại, bà ý thức
được hoàn cảnh của gia đình mình,
và chấp nhận về một phương diện
nào đó Mùi có lý. Và cũng phải một tuần
sau bà mới nói lại được với chồng.
Ông Thành, chồng bà vừa nghe xong đã nổi
đoá:
- Thằng mất dạy. Nuôi bằng ngần
ấy tuổi đầu vẫn không hiểu nổi
hai chữ hiếu để.
Đợi chồng qua cơn nóng, bà Bình mới
nói với chồng:
- Mình thường nói rằng: "Đời ta
coi như vứt. Chỉ cầu mong sao cho con cái
được hạnh phúc". Thằng Bi, cái
Lài, cái Thuý thật sự chúng ta không còn hy vọng
gì. Còn một thằng Mùi, nếu nó được
hạnh phúc thì chúng ta cũng mãn nguyện rồi.
Tôi xem ra, hai đứa chúng yêu nhau lắm. Mình nên
nghĩ lại.
Mỗi lần nghĩ đến chuyện Mùi là
mỗi lần ông Thành nghe buốt trong tim. Có lúc,
ông nghe tiếng độc thoại của chính
ông, vang lên trong lòng: "Nếu mình có một
đứa cháu đích tôn cũng lâm cảnh như
thằng Bi chắc mình chết mất". Câu nói
ấy là đầu nối dẫn ông tới sự
chấp nhận cho Mùi và Hoa đưa nhau vào Đồng
Nai. Ông cho Mùi gọi Hoa về. Trước mặt
con trai và con dâu tương lai, ông nói:
- Cha mẹ chỉ còn biết cầu mong trời
phật cho các con được hạnh phúc.
Hai chữ hạnh phúc ông Thành nhấn mạnh
bao hàm sự đầm ấm trong hai vợ chồng
chúng. Dù không nói thành lời, song hai chữ hạnh
phúc của ông còn chứa chất khát khao trong
đó có những đứa cháu của ông lành lặn.
Hoa oà khóc ôm lấy ông rồi ôm lấy bà Bình:
- Con xin cảm ơn ba, cảm ơn mẹ.
Suốt buổi tiễn con đi, ông lặng lẽ,
chỉ dặn một câu cuối cùng:
- Hễ có "sự" gì thì báo về cho cha
mẹ, chúng tao sẽ vào ngay.
Mùi đi, nhà anh như trống vắng hẳn một
nửa. Bà nội Mùi nói với cha, mẹ anh:
- Thằng Mùi đi, mẹ nhớ nó quá, nhưng
bù lại, mẹ còn có một chút hy vọng.
Không cứ gì bà nội, cả ông Thành, cả
bà Bình bần thần, ngơ ngác cả một
tháng.
Cách đây 25 năm, hai ông bà là một cặp
uyên ương trai tài, gái sắc của du kích xã
Cam Chính thuộc huyện Cam Lộ này. Họ cưới
nhau ngay trên cửa hầm bí mật có đội
du kích Cam Chính cùng gió trăng cây cỏ của Cam
Chính làm chứng. Ngay năm sau, 1967, họ đẻ
đứa con trai đầu tiên. Lấy ngay can chi của
năm ấy đặt tên cho con trai mình làm kỷ
niệm của một thời yêu nhau: Bùi Đinh Mùi.
Xuất xứ của cái tên Mùi là vậy. Sau cuộc
tấn công Mậu Thân 1968, đội hình Mỹ
nguỵ tan hoang. Chúng trả thù tất cả cây cỏ
trên Trường Sơn bằng chất độc
màu da cam. Thành và Bình cùng bao đồng đội
khác nhiễm chất độc màu da cam ấy. Năm
1969, Bình sinh Bi, thấy cái quái thai chui ra từ máu
mình, Bình khóc rấm rứt. Hai vợ chồng bàn
nhau: "Thôi ta đẻ thêm vài đứa nữa,
bù cho sự mất mát của Bi". Ai ngờ sinh
Lài, rồi sinh Thuý, vừa nhìn thấy đôi mắt
Thuý trên tay người hộ sinh nâng nó trao cho
Bình, Bình oà khóc. Cứ thế khóc nức nở. Hận
mình, hận đời. Thành phải dỗ cô suốt
một đêm Bình mới nguôi ngoai trở lại.
Vợ chồng bảo nhau: "Dẫu sao chúng cũng
là giọt máu của chúng ta". Họ sợ,
không dám đẻ nữa. Tất cả nghị lực
của họ dồn vào nuôi 3 giọt máu không
đủ hình hài ấy của mình.
Chỉ có bà mẹ của Thành, không ít lần,
bà gào lên:
- Ông trời có mắt, xin hãy băm vằm cái
thằng Mỹ đã hại đời ba đứa
cháu tôi.
Thành, anh cũng hết sức nén lòng mình lại
để an ủi mẹ và vợ:
Cả huyện Cam Lộ có tất cả 650 cháu
dị dạng như con cháu chúng ta mẹ ạ. Nỗi
đau này đâu phải chỉ riêng một gia
đình mình.
An ủi mẹ và vợ, cũng chính là Thành an
ủi mình, giữ vững lòng mình.
Sau chiến tranh, Thành, Bình trả súng cho huyện
đội, trở về với ruộng vườn,
làm người nông dân Cam Chính. Hai người cặm
cụi suốt ngày làm lụng, không hề phàn
nàn, như vốn bản tính của người dân
Quảng Trị. Làm và nuôi 4 đứa con. Chỉ
cầu trời không phải chết trước
để không thả con bơ vơ giữa đời.
Niềm an ủi lớn nhất của họ,
như Thành nói: "Dù sao ta cũng còn có thằng
Mùi".
Nhớ chuyện cũ, bà Bình nói với chồng:
- Vợ chồng mình đừng nghĩ tới thằng
Mùi nữa cho nó được yên thân. Không thì
nó nhể mũi hắt hơi cả ngày thành bệnh
đấy.
Bà nội của Mùi cảm thấy cô đơn
nhất. Vợ chồng Thành đã ít nói chuyện
với nhau, càng ít chuyện trò với cụ. Hơn
ai hết, cụ hiểu Thành, hiểu Bình, cụ
im lặng. Nhưng những lúc nỗi nhớ Mùi
trào lên, cụ tấm tức khóc một mình.
Cắm đầu cắm cổ ngoài ruộng,
ông bà Thành thả ba đứa con cho bà nội. Năm
nay cụ đã tám mươi. Chân tay khô như que
củi. Lưng còng gập. Đi, đầu chúi về
phía trước. Đầu tóc rụng hết, còn
lơ phơ mấy sợi tóc.
Ba đứa cháu nằm ba giường. Cụ chống
gậy dỗ được đứa này thì
đứa kia khóc.
Oa! Oa! Con Thuý khóc ngặt nghẽo.
Rầm! Rầm! Rầm! Con Lài đập đầu,
đập tay xuống giường. Chúng không nói
được. Ngôn ngữ duy nhất của chúng
là kêu, khóc. Bạch! Bạch! Bạch! Mấy bữa
nay không biết trở trời, hay thằng Bi ăn
phải cái gì ngộ độc mà đi ỉa chảy
suốt ngày. Mùi khắm của phân sống nồng
nặc khắp ba gian nhà.
Chiều. Chị Bình về. Một gánh nặng oằn
vai. Đầu này một rổ khoai, đầu kia
một bó củi. Vừa đặt gánh, chỉ kịp
kéo vạt áo lau mồ hôi đầm đìa trên mặt,
đã phải vào bếp nổi lửa lo bữa
chiều. Ông Thành treo cái bừa lên đầu hồi,
móc cái cuốc vào chuồng lợn, chạy ngay ra
giếng, thả gàu xuống đáy giếng hun hút
mấy chục mét, múc đầy từng chậu rồi
cùng người mẹ già bồng từng đứa
con tắm rửa cho chúng.
Ngày nào cũng vậy, sớm thì mười một,
mười hai giờ đêm, khi ba đứa nhỏ
đã nhắm mắt, thở đều đều,
lúc ấy cả ba người trong nhà mới
được ngơi tay lo chăm sóc riêng cho mình
một chút.
Ông bà Bình vừa chợp mắt, bỗng một
đứa nào hét lên trong giấc mơ, thế là
bản đồng ca của ba cái miệng cùng thi
nhau gào khóc giữa đêm. Cả nhà vùng dậy,
cuống quýt. Mái tranh như sập xuống theo.
Nhìn hố mắt đen ngòm, có quầng thâm rộng
xung quanh, đủ thấy những cơn đói ngủ
triền miên của những cặp mắt ấy.
Ngả lưng, đánh một giấc, không phải
lo toan gì, điều ước đơn giản
thế thôi, mà mấy chục năm nay không thực
hiện được.
Có ngày cả ba người lớn không nói với
nhau một lời. Họ như những cái bóng và
nén lòng cam chịu.
"Không biết kiếp trước mình sống
ra sao...", có lúc bà Bình oán thân như thế,
nhưng không có câu trả lời.
Hội phụ nữ cho bà Bình vay vốn đầu
tư vào vườn tiêu và cố công mấy đầu
lợn trong chuồng. Hội Chữ thập Đỏ
xét, tặng cháu Thuý một chiếc xe lăn. Thanh
niên Cam Chính tổ chức đội tình nguyện
"Giúp các cháu trở lại cộng đồng".
Mỗi tuần ba buổi chiều, chị ý tới
nhà ông Thành, lấy dầu nóng xoa khắp tay chân,
xoa dọc sống lưng cho cháu Thuý, rồi xốc
nách nâng cháu đứng lên, đặt hai tay cháu vịn
vào cái xe lăn. Theo xe, Thuý loạng choạng từng
bước một. Đó là những chiều căn
nhà tranh ba gian của ông Thành thấp thoáng màu hồi
sinh. Chiều chiều ông Thành cố làm vườn
xong sớm để về đẩy xe cho Thuý tập
đi. Ông một bên, bà một bên giơ sẵn
tay đỡ Thuý khỏi ngã, giúp Thuý bám vào cái xe
và đứng bằng đôi chân khẳng khiu như
cái que.Mỗi bước đi run rn của Thuý là
mỗi bước đi run run của cả cái gia
đình này. Giống như cả nhà tập đi
vậy.
Đúng cái lúc nụ cười loé trên môi Thuý
thì thằng Bi dở chứng. Âm ỉ khóc cả
ngảy. Ông Thành đỡ Bi ngồi dậy, bà
Bình xúc thìa cơm đặt trước môi Bi, nó
chỉ lắc đầu, nước mắt chảy
dòng dòng. Bi không biết nói. Như Lài và Thuý không
nói được. Nên chẳng thể biết những
gì đang diễn ra trong lục phủ ngũ tạng
nó. Chỉ biết rằng nó khóc, nó không ăn là
nó đau. Nghe Bi khóc, nẫu cả lòng.
Ông Thành ôm con lên trạm xá xã, các thầy thuốc
nghe tim, bắt mạch, lắc đầu. Không tìm
ra căn bệnh của Bi. Nó không nóng, không sốt.
Chỉ có nhịp tim yếu dần rồi lịm
đi. Ông Thành ôm con về tới nhà thì nó tắt
thở hoàn toàn. Bà Bình từ vườn tiêu chạy
vào ôm lấy cu Bi mà lay, mà khóc, mà than vãn: "Bi
ơi, con nỡ bỏ mẹ mà đi ư?"
Cả xóm chạy tới nhìn Bi, bất lực. Tất
cả xúm lại, đóng quan tài, liệm cho Bi rồi
đưa nó ra nơi an nghỉ cuối cùng. Bà
Bình ôm lấy nắm đất mới kể lể:
"Nào mẹ có bao giờ hắt hủi con đâu
mà con nỡ bỏ mẹ con đi! Con ơi!". Xóm
giềng và đặc biệt là các bạn gái, hầu
như suốt ngày lúc nào cũng có mặt ở
nhà để an ủi bà Bình. Nhưng không xua tan nổi
làn hương, làn khói bay đến đâu, bà
Bình thấy thấp thoáng vật vờ bóng thằng
Bi ở đó. Bà như nhìn rất rõ hai bàn tay thằng
Bi cố muốn với sờ lên mặt mẹ
không được. Nghĩ thế, nước mắt
trong hai khoé mắt sâu của bà lại tràn ra. Thế
mới biết, với người mẹ thì tất
cả những giọt máu củamình dù số phận
của chúng thế nào vẫn rất đáng yêu.
Chỉ một tháng từ ngày thằng Bi bỏ
cha mẹ nó đi, tóc bà Bình bạc trắng, không
còn một sợi nào xanh. Không một bữa nào
bà quên mang cơm ra cúng tận mộ cho nó. Tàn hương
bà vẫn không chịu về.
Sức khoẻ của ông Thành cũng sụp hẳn.
Viên bi xuyên qua phổi nằm sát tim cựa quậy
làm cả vòm ngực ông đau thắt, ông cắn
răng không rên, mồ hôi túa ra đầm đìa.
Bác sĩ khuyên ông bớt xúc động. Nỗi
đau quá lớn nhức nhối từng tế bào
đập vào các ổ bệnh, làm nó cứ muốn
bung ra. Những lúc ông cất lên tiếng rên là bệnh
tình đã báo động cấp ba. Nhất là khi
không ghìm nổi, bật ra tiếng nói "Bi
ơi!" bác sĩ phải tiêm cho ông một liều
giảm đau ông mới chịu nằm yên.
Bà Bình cầm tay ông do dự:
- Ông nghe trong người thế nào?
- Tôi còn chịu được.
- Tôi đi đánh điện gọi thằng Mùi
ra nhé.
Ông Thành gạt đi:
- Nhận được điện, vợ chồng
chúng lại cuống lên. Chúng là những đứa
có hiếu. Kéo nhau đi cả lũ thì lấy
đâu tiền tàu xe. Chúng mới vào, cả trăm
thứ, chỗ nào cũng cần tiền. Chúng
đâu đã dành dụm được.
Ông chợt hỏi:
- Bà tính xem, con Hoa đã đến tháng đẻ
chưa?
- Cứ tính theo thư con Hoa gửi về, thì nó
sinh được 2 tháng rồi.
Ông Thành nghẹn ngào:
Hay là... hay là... hay là đứa cháu đích tôn
của chúng ta đã... đã mệnh hệ gì?
Nhắc tới nỗi thấp thỏm ấy, cả
hai ông bà lịm đi. Một lúc sau ông Thành ôm ngực
đau quằn quại. Hai tay ông ôm chặt ngực,
giục vợ:
- Bà lấy cái khăn hay sợi dây thừng càng
tốt quấn chặt vào đầu tôi đây
này. Nửa đầu trái cũng đau quá! Nó giật
lên từng cơn theo nhịp tim.
Bà lấy khăn quấn vào đầu cho ông,
ông không chịu, đòi thay dây thừng thắt cho
chặt. Và như có ai đâm dao vào ngực ông.
Ông ngã vật xuống, hai mắt trợn ngược,
nước dãi trong miệng trào ra hai bên mép. Ông muốn
nói gì đó mà không thành lời, chỉ ú ớ,
ú ớ.
Bà Bình đứng giữa sân kêu hàng xóm:
- Ông Thành chết mất. ớ bà con, giúp tôi với!
Giúp tôi với!Những người đàn ông, rồi
những người đàn bà nghe tiếng kêu của
bà Bình, họ gọi nhau chạy tới. Thoáng cái,
người đã chật nhà.
Một ông hàng xóm ra lệnh:
- Mau lên, đưa ông ấy đi cấp cứu!
Đúng lúc ấy, một người đàn ông
cao, gầy, đen đi từ cổng nhà vào. Qua một
phút ngỡ ngàng, họ nhận ra người
ấy là Mùi.
- Bà Bình ơi, thằng Mùi về.
Mùi vừa bước vào sân, người ta chỉ
kịp đặt vào tay anh chiếc ghi đông xe
đạp. Một chiếc cáng buộc vội nối
xe anh cầm với một chiếc xe đằng
sau. Nằm trong cáng là ông Thành, cha anh. Họ giục
anh:
- Đi ngay đi, không chậm mất!
Theo sau hai chiếc xe đạp dắt cáng là mẹ
Mùi ôm một bọc quần áo của chồng chạy
theo.
Cứ thế, nhằm hướng Cam Lộ, hai
người đẩy xe cắm đầu chạy
miết. Rất may, chỉ một tiếng đồng
hồ sau bệnh nhân được chuyển thẳng
vào khoa cấp cứu. Bác sĩ lùa hết người
nhà bệnh nhân ra ngoài, một chiếc giường
đẩy chuyển ngay ông vào phòng cấp cứu
khẩn cấp.
Các bác sĩ bệnh viện sau khi hội chẩn,
quyết định phải dùng đủ liều
thuốc tim mạch, hạ mạch cơn xúc động
của ông xuống trạng thái bình thường.
Bác sĩ hỏi bà Bình:
Có sự cố gì mà gây cho ông ấy cơn chấn
động dữ dội đến thế?
Bà Bình đáp:
Đứa con trai yêu quý của chúng tôi chết.
- Ông bác sĩ lắc đầu cảm thông bằng
cách tập trung sức lực chữa chạy cho
ông Thành. Ba ngày sau, ông Thành đã tỉnh táo, sức
khoẻ được phục hồi nhanh. Duy huyết
áp còn hơi cao: 150/100.
Trao giấy ra viện cho ông Thành, bác sĩ nói:
- Ông phải hết sức tránh xúc động
để viên bi nằm bên trái tim được nằm
yên. Trước mắt phải bồi dưỡng
cho lên sức. Sang xuân trời mát chúng tôi sẽ
tính chuyện với viên bi này.
"Tránh xúc động", lời dặn
ấy của bác sĩ đã ngăn ông Thành, dù
Mùi ngồi ngay cạnh ông, ông vẫn lảng mắt
tránh để không hỏi Mùi về đứa cháu
mà ông vẫn lo canh cánh bên lòng.
Xe có dấu chữ thập đỏ của bệnh
viện vừa xịch đỗ xuống sân, ông
Thành mở ngay cửa, chạy vào nhà, bồng Lài
và Thuý trên hai cánh tay:
- Ba nhớ các con quá! Các con biết không?
Đã đành chúng không nói được. Mắt
chúng nhìn đi đâu đâu. Mắt ông Thành gặp
những ánh mắt ấy. Hai cánh tay ông càng ghì chặt
chúng vào lòng.
Bất giác Mùi không thấy Bi. Anh hỏi:
- Em Bi đâu mẹ?
Bà Bình ngồi phịch xuống cái giường
xưa Bi vẫn nằm. Bà khóc nấc:
- Em Bi chết rồi con ơi.
Nhìn mẹ lăn lóc trên giường, nhìn hai
đứa em như tuột khỏi tay cha, Mùi oà
khóc:
- Sao ba, mẹ không tin cho con để con về với
em - Mùi cũng nấc lên như mẹ - Bi ơi, sao
em không hiện lên báo mộng cho anh.
Ông Thành lặng lẽ dẫn Mùi ra mộ Bi. Bà
Bình thẫn thờ loạng choạng bước
theo sau. Mùi châm lửa thắp hương cho em. Còn
mẹ anh dang rộng hai cánh tay ôm nấm đất
vào lòng. Cũng phải tới cả tiếng đồng
hồ, nhờ sự vững vàng của người
cha, cả ba người mới lấy lại
được bình tĩnh. Ông Thành sờ nắm
hai vai gầy tóp của con:
- Các con đói lắm hay sao mà gầy đến
nông nỗi này?
Mùi đáp:
- Không đêm nào con ngủ được trọn
vẹn. Người cứ thế mòn đi dần.
Hoa phải giục con: "Em biết anh thao thức
vì các em từng ngày. Anh phải trở về Cam
Chính đi, không thì ở đây anh chết mất.
Mẹ con em mãi mãi chờ anh".
Câu nói cuối cùng của Mùi như một thân
cây chuối giữa dòng nước lũ. Ông bà
Thành bám ngay lấy vào thân cây chuối ấy! Ông
Thành nói:
- Con có biết mấy ngày nay ba sợ hết hồn
vì hai chữ "cháu ông" như thế nào
không? Mẹ con đêm đêm bấm đốt ngón
tay tính, nếu như theo thư con Hoa gửi về,
thì nó phải sinh được 2 tháng rồi.
Không thấy tin tức gì của con cha mẹ sợ
quá. Thôi thì, dẫu sao cũng là giọt máu của
mình. Nó có phận hệ gì thì cũng là con cháu
mình. Con vừa nhắc tới ba chữ: "Mẹ
con em", vậy con hãy nói ngay cho ba mẹ hay xem
đứa cháu của ông bà thế nào.
Mùi rút trong túi ra tấm hình chụp đứa
con mũm mĩm của anh, đưa cho ba:
- Cháu đích tôn của ông bà đây.
Cả hai ông ba như vồ lấy. Mùi nói tiếp:
- Cháu lành lặn ba mẹ ạ.
Ông Thành hai tay run run nâng tấm ảnh trước
mặt như nâng một bông hoa. Bà Bình nghiêng người
ngó vào xem nhờ. Bất thình lình ông Thành úp tấm
ảnh ấy vào mặt, khóc rống lên:
- Ôi! Cháu tôi!
Nước mắt ông chảy ròng ròng. Từng
giọt, từng giọt lăn từ phía trong lòng
hai bàn tay, chảy xuống cùi tay, rơi từng giọt,
từng giọt xuống đất.
Và từng giọt thấm ngay vào đất làng
Cam Chính của Quảng Trị này./.
Nguyễn Quang Hà (Văn nghệ Quân
đội)