Ông Tư thấm mệt gác cây cần lên chiếc
thuyền nan, ngước mắt nhìn trời, miệng
chửi đổng. Mẹ kiếp! Nắng dữ!
Suốt 3 tháng liền chẳng một giọt mưa.
Cứ cái kiểu này thì làm ăn mẹ gì đây!
Câu cá tràu ở trên con bàu Lâm yên này đã gần
hai chục năm, ông tư chắt bóp dè sẻn,
tuy không dư dả, nhưng cũng đắp
đổi qua ngày. Đặc biệt năm nay trời
hạn mãi, cá tràu chẳng chịu vầy tổ
đẻ trứng. Sự tình cứ như thế
này, ông không biết đào đâu ra tiền gạo
nuôi đàn con nheo nhóc và bà vợ ốm đau mãi
ấy! Ông Tư cảm thấy mệt mỏi rã rời
nghĩ đến cái cảnh con thơ ngồi trên
mui thuyền ngóng mắt chờ cha, vợ đau nằm
trong xó xỉnh cầu nguyện cho chồng làm
ăn gặp vận. Càng nghĩ ông càng buồn!
Ông chạnh lòng nhớ lại những tháng năm
còn sống với bố mẹ. Bao nhiêu nỗi nhọc
nhằn cay đắng vì lũ ông mà bố mẹ
phải gánh chịu không một lời than thở.
Tình thương ấy cứ gắn mãi trong lòng mỗi
người cho đến khi mấy chị đi lấy
chồng, ông lấy vợ, ở riêng. Tình mẫu
tử thiêng liêng đã thấm mềm trong cơ thịt
và với ông, nó như một sợi dây vô hình
đã ràng buộc vào con thuyền lênh đênh, vào
cái nghề cực khổ này. Bỗng tiếng tù
và rúc một hồi dài kéo ông quay về thực tại.
Con vịt mồi nằm trên sạp gỗ trố cặp
mắt ráo hoảnh nhìn sang ông. Cây cần câu lưỡi
vẫn buộc chặt trên thân. Ông thầm nghĩ:
không lẽ hôm nay chẳng hơn gì hôm qua sao!
Mặt trời đã tròn bóng. Tiếng mái chèo lại
bắt đầu khua bì bõm, lau lách trên mép bờ
bàu. Cứ thế con xuồng lấn dần những
gần cây số đường nước mà vẫn
chưa bói ra mẻ nào! Bất chợt từ phía
bên kia đám lùng, một cái vẫy ầm toé nước.
Ông khấp khởi mừng thầm, lao nhanh xuống
tới. Quả đúng như dự đoán. Một
tổ cá vầy trong bụi cỏ to hơn chiếc
nón. Trứng trắng đã ngả màu đen xạm
dàn trải lên lớp màn đục. Ông đoán chắc
là chúng sắp nở con. Cái nghề sống gần
hai mươi năm ấy đã dạy ông biết
chắc một điều: trứng sắp nở,
bố mẹ nó sẽ tợn hơn nhiều, bất
chấp cái chết để bảo vệ cho bằng
được đàn con ra đời. Lòng ông rộn
niềm vui. Tay ông buộc vịt, tra mồi mà
đầu ông mải nghĩ đến cuộc
đọ sức tuy không cân xứng về lực,
nhưng tài mưu lược đôi bên có lẽ
ngang tầm. Ông buột miệng quả quyết
kêu lên: "Tao sẽ thắng vì lũ con tao
đang cần chúng mày!".
Quả thực ông Tư đã thắng! Hai con cá
tràu nằm sườn sượt trong lòng xuồng.
Chốc chốc chúng ngoi đầu lên, vẫy
đuôi đành đạch như cố tìm
đường tẩu thoát để về với
lũ con sắp ra đời của chúng, nhưng bất
lực...
Ngôi nhìn cặp cá, ông Tư sắp sẵn trong
đầu: một con bán đi lấy tiền
đong gạo. Con cá mẹ lớn hơn làm thịt
nấu cháo cho lũ con đánh bữa đỡ lòng
qua những ngày đói khát. Sự dự tính tưởng
chắc như cơm vào miệng. Ai ngờ, con cá
đã trút hết vảy để lộ cái thân
hình nõn bà, bà Tư sơ ý, đánh rơi xuống
bàu, lẩn mất tăm.
Cơ sự đã thế ấy, hai vợ chồng
và lũ con ông ngồi sững sờ nhìn nhau! Chết
điếng!
Sáng hôm sau khi ông mặt trời thức dậy,
như thường lệ, ông Tư tu một bát nước
chè hầm, cho cần và vịt mồi vào xuồng
rồi lướt sóng ra đi. Ông gặp tổ
cá sớm hơn hôm qua. Trước mắt ông cái
tổ con đen sạm cũng chỗ ấy, hôm
qua, một con cá tràu thân trắng tợ bông
đang lững lờ bơi qua bơi lại. Mắt
ông hoa lên, ông dụi tay xem lại. Bất chợt
ông thảng thốt kêu lên: "Chính nó rồi!".
Trời ơi! Vượt mấy cây số
đường nước với cái hình hài trơ
trụi thế kia mà nó vẫn cố tìm về. Và
về kịp, lúc những chấm cá tràu bắt
đầu hiện li ti trên mặt nước. Lòng
ông bàng khoàng! Tay chân bủn rủn! Không còn ham muốn
gì nữa, ông đành quay xuồng lặng lẽ trở
về...
Từ đó, trên cái bàu Lâm Yên này, không còn ai
thấy bóng dáng con thuyền của gia đình ông
Tư đỗ ở đấy nữa.../.
Xuân Đình