Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng
đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề,
diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân
lau nẹp thành liếp. Ken dầy đến nỗi
gà cũng không chui vào được. Suốt ngày
bà ở ngoài bám đất, cuốc xới, nhặt
cỏ, ươm cây. Bà bảo các thứ rau này,
đừng nghĩ nó dại, thuốc nam hết cả.
Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "ăn cho
nó mát", nhưng đến bữa cả nhà chỉ
ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn
nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy. Hơi nóng sốt
một tí là y như rằng bà nhai diếp cá bắt
đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa
nào có cua đồng, mẹ nhổ rau dền đất
nấu canh, cô Sửu mới khen ngon. Ngày cô Sửu
đám cưới, đám thanh niên hè nhau đạp
gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái video bố
đem từ trên huyện về chiếu bộ phim
đánh chém nhau của Hồng Công. Sáng sau ra vườn,
thấy đất bị dẫm đạp vô số
dấu giày, rau cỏ nát bét lẫn với đầu
mẩu thuốc lá, bà sốt ruột chửi um,
đến nỗi mẹ phải gắt bà mới
thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc
chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi
vác sang mấy bó lau, lụi hụi trồng cái liếp
rào cho bà. Bố cằn nhằn: "Không có việc
bà nghỉ cho khoẻ, việc gì phải đất
với cỏ".
***
Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt
đồi cỏ léc cao quá đầu người.
Men bờ khe có hơi nước, léc xanh um tùm, lá
to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng
không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ
cần vương nhẹ nghe đau, y như rằng
lá léc cắt. Thế nhưng chú Thao không phát
đường, cứ đạp léc xuống mà
đi, chân léc gãy không cong rẽ ra hai bên tạo
cho lối đi hình cái máng vòm. Mùa khô, những người
đi bứt lá về bỏ chuồng hay đi qua lối
nhà chú Thao, nhưng hễ mưa xuống trên phiến
léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con
đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày, từ
những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi
và mềm vươn lên vẫy vẫy.
Chú Thao là người trở về cuối cùng
của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào
cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở
với chồng bên chợ, cách sông và một thôi
đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể
lể thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc
thút thít. Chú đứng trước bàn thờ
mình chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt
chú trông chẳng giống mặt người trong
ảnh, phía hay giật đen một mảnh và
đầy sẹo nhỏ.
Bà nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về
có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy
chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má
trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo:
"Sự thể đã thế, đừng nghĩ
ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người
ta". Thím Hồng về, rồi lâu không thấy
sang nữa.
ở nhà được ít lâu, chú Thao làm cái
nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm
chỏng lỏn giữa bạt ngàn cỏ léc, đứng
xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc
đất trồng khoai, trồng sắn. Đất
tốt, chả mấy chốc vườn chú đã
có cái để thu hoạch. Bây giờ, những
cây xoài cây mãng cầu đã lớn nhanh lên khỏi
ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho
khai phá mấy vạt đồi phía sau để
trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính
chủ tịch nói là đất ấy nhiều bom
đạn, đụng vào lỡ xảy ra chết
chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố
nhờ nói hộ. Bố bảo: "Không dễ",
chú nhắc lại: "Vâng, không dễ", rồi
về.
Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi
nghe vẳng từ bên kia tiếng sáo. Dặt dìu
nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương
khói chiều nghe có cái gì quằn quại trong lòng.
Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ
chăn trâu đứng ngẩng quên cả ngày
đang tắt, quên cả đói cả lạnh. Dứt
tiếng sáo chúng mới lục đục lùa trâu
về, thầm thì kháo nhau: "Ông Thao trông mặt
sợ thế mà thổi sáo hay tàn bạo nhỉ!".
Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng
Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn
nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng
sáo chú Thao. Đêm văn nghệ nào có chú thổi
sáo, thanh niên nam nữ đứng xem đông nghịt,
hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo
như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến
nỗi trai làng có bận dọa bẻ hết
ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. "ấy vậy
mà bây giờ..." Nói thế, bà lại khóc. Mỗi
lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: "Ai
người ta cũng biết, mẹ kể mà làm
gì".
Khoảng gần Tết, mấy cây chanh ghép trong
vườn chú Thao trổ bói. Giữa một vùng
chỉ cỏ là cỏ, hương chanh ngọt ngào,
tinh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương
rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng
hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm
ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt
ngàn ngọn léc uốn cong theo gió, cơ má trái giật
giật.
Từ độ hoa chanh vườn chú Thao nở,
cô Sửu thỉnh thoảng sai "Mày chạy vào
nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu".
Cô đâm nghiền thứ nước bồ kết
nấu thả vài cánh chanh trắng, hương
thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày
mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ,
nhưng cô Sửu bao giờ cũng có để gội
đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong
khô, cất kỹ, mỗi bận lại cho cô Sửu
một ít. Cô Sửu có lần đùa: "Vì mấy
cây chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng,
cô hếch mặt: "Còn mày, đến thời
không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo bố
mày sắm cho ít vòng xuyến...".
Cô Sửu vốn không đẹp, da đen, vóc người
to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp
nông nghiệp, về xã làm kỹ thuật viên, cũng
chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng
buông lời tán tỉnh là cô bỉu môi ra chiều
cười thường. Cô nói cô thích người
trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy.
ấy thế nên cô nhận lời lấy anh kỹ
sư ở cơ quan bố.
Bà cũng hay sai. Bà thường bảo mang những
thức rau trong vườn cho chú Thao. Mỗi lần
sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa
đi bộ đội ra kể, nào là chuyện
chú Thao tát cá về bắt bà nấu canh rau tập
tàng ra sao, nào là chuyện chú Thao cuốc đất
khỏe như thế nào. Thôi thì đủ chuyện,
dài có khi hết buổi, làm mẹ phải nhắc
khẽ: "Chạy ù đi rồi về học bài".
Chú Thao ít qua nhà nhưng hễ qua là thế nào
chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt
nhím, thịt chồn bẫy được, ngồi
với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi
ngay. Có lần cô Sửu bảo: "Hay anh lấy vợ
đi. Đã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn
học..." Không chờ cô Sửu nói hết, chú
Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son
đang tô môi giở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi
cô mới toang toang: "Dở hơi, ông Thao ông
ấy dở hơi. Thời này đàn bà rẫy
ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để
mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một
chút nhưng cũng là đàn ông. Có vợ có chồng
vẫn cứ hơn thui thủi một mình. Biết
toan tính, chăm chỉ như ông ấy, chả mấy
chốc mà giàu. Hay còn chung thủy với bà Hồng?
Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương
tiếc nỗi gì nữa không biết..." Bố
gắt: "Biết thì nói, không thì đừng. Cô
là hay nói nhiều". Cô Sửu đùng đùng:
"Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như
ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương
sao để ông ấy ra ở rừng một mình?
Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương
tật? Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng
là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc,
thế mà không. Để cho cỏ nó mọc bạt
ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại
không cho". "Đã bảo lắm bom...".
"Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng
của ông Thao, ông sợ cái khác. Đạo đức
giả tuốt!". "Cô đừng có hồ
đồ. Im đi cho tôi nhờ!". Bố bực
bội. Cô Sửu không im, cô xỉa xói: "Ông
đừng ỉ mà quát tôi nhé! Ông bắt ai im
được chứ tôi thì đừng hòng. Tôi
biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của
ông. Tôi biết cả cái giấy đòi nhập ngũ
là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi
nước ngoài nên phải cạy cục lo cho ông
Thao đi thay. Có ông Thao gánh hết thiệt thòi
ông mới thành ông này ông nọ. ấy thế mà
giá ông Thao chết đi có khi ông lại dễ chịu
hơn là thấy ông ấy lù lù dẫn xác trở
về..." "Mày, mày, mày..." - Bố lắp
bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảy
mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: "Vô phước,
tao vô phước..." Mẹ lặng im cắn môi
ngồi một mình trong buồng. Bố nổ máy
xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật.
* *
Cô Sửu lấy chồng chưa đầy
năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô
vào buồng, mặt tái nhợt: "Làm sao thế
hả". Cô Sửu khóc, nói trong nước mắt:
"Em dại. Đã trót ở đến chừng
ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng
làm gì cho nó nhục...". Mẹ đảo mắt
chung quanh hoảng sợ: "Thì nho nhỏ thôi! Có
gì cô nói đi xem nào". Cô Sửu quệt nước
mắt: "Cái số em nó khổ. Ngót ba chục
tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm,
lấy chồng trình độ, ăn trắng mặc
trơn thiên hạ tưởng sung sướng, nào
ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết
em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...".
"Trời ơi là trời!" - Mẹ bưng mặt.
"Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thì nói". Cô Sửu
tuyên bố khi có đủ mặt cả nhà. Bà chu
chéo, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong,
rằng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà
khóc, bà chửi ầm cả nhà. Bố im lặng
hút thuốc, mãi sau mới nói: "Chuyện xấu,
chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho
người xem lưng. Cái làng này không khéo đến
lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến
xem đứa bé giống ai...". "Muốn xem
tôi cho xem chứ! Tôi sợ gì mà giấu với diếm".
"Hay hớn lắm đấy, cô lên phố mà
xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ,
đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu
chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng
nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...". Cô Sửu
cúi nhìn cái bụng sắp sửa vượt mặt,
lại khóc. Nhà buồn như có đám.
Tháng Chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú
Thao nở. Cô Sửu đã không còn sai chạy sang
chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập
rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng
xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi.
Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận
óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều
tối, giăng mắc lên làng mạc một làn sương
mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi
hong tay trên bếp lửa, hết sáng tới chiều,
hết chiều tới tối, đêm bà ngủ mẹ
cũng phải vùi than dưới giường cho bà.
Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn
nữa. Khoảng đất của bà dền đất
già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoẳn ngoẵn,
chen chúc với lũ cỏ hôi hoa màu hồng hồng,
lá phủ một lớp lông mọc nham nhám. Cái liếp
rào một lần gió lay là xiêu vẹo chực ngã.
Phần cái cuốc chét, cán gãy mẹ đã cho vào
bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thằng cu
Ti đã bán cho đồng nát.
Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi hay
đái dầm. Không thấy hàng xóm đến xem mặt
đứa bé như lời bố, chỉ có ông
Bính chủ tịch không con đến nhận thằng
bé nhưng cô Sửu cười bảo: "Tôi
đẻ, con tôi, chẳng con ai cả".
Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng
rồi hát:
Cái vạc mày ngủ cho ngon
Mai sau mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò...
Cô bảo: "Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô
chạy quàng đi một tí. Lâu ngày nằm ổ,
buồn quá!". Cô vấn tóc chùm khăn kín mặt,
đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngõ
đã nghe tiếng cô oang oang: "Điên, ông Thao
nhà mày điên mất rồi". Mẹ tất tả
chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa
tháo khăn vừa nói: "Đàn bà không chồng
làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại
đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông
suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế
gian"...à, ra cô Nền về ở với chú
Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học,
không thấy nói có chồng nhưng có ba đứa
con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống,
lợi dụng bứt trái đu đủ non,
dăm quả ổi xanh, trốn học chấm muối
ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp
trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết
nhưng không chửi, không mắng. Được
thể bọn trẻ lại làm quá. Cô là đối
tượng trong những câu chuyện của đám
đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa
phát vào lưng nhau đôm đốp: "Em Nền
ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi
bất hạnh là em mềm lòng cho tuốt...".
Đàn bà khinh nhờn cô ra mặt. Họ bảo
cô đĩ thõa, họ bảo cô khốn nạn.
Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng
có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt.Cô Sửu lay gối
bà, than thở, chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng
im hong tay trên bếp, chẳng ra nghe, chẳng ra
không. Mắt bà đục mờ như có phủ sương
khói. Bà cười, phô hàm lưỡi trống
trơn sóm sém. Lâu bà mới hỏi mẹ: "Thế
bao giờ đến giỗ thằng Sơn?". Mẹ
dịu mắt, nhắc khẽ: "Chú ấy còn sống,
đã về...". à thế..." Mắt bà ánh
lên một chút sáng, rất nhỏ, rất mỏng,
rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy
sương khói đục mờ. Mẹ và cô Sửu
nhìn nhau, không ai nói.
***
Trong hơi may, trên những triền đồi
hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ
chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám, giữa
lồng lộng gió. Trên muôn triệu lá léc xanh
xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo,
là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa
bao giờ nỗi niềm da diết đến thế.
Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt
tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia
đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng
bay lên, vẽ một đường cong mềm mại,
rồi tỏa tỏa vào trong chiều muộn./.
Trần Thanh Hà