BẮT
SẤU RỪNG U MINH HẠ
(SƠN
NAM)
Nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng
nhứt. Có điều đáng chú ý là chúng không
thích những chốn sông sâu nước chảy, có
sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên
tĩnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường
đi ngược sông Ông Đốc, rạch Cái
Tàu vào giữa rừng tràm.
Tại sao vậy?
Tuy là thích ăn thịt người, loại sấu
vẫn tìm cá làm món ăn chánh. Rừng U Minh hạ
thuộc về loại trầm thủy (1)
cá sanh sôi nẩy nở rất nhanh chóng; lên đó
tha hồ mà ăn.Đến mùa nắng hạn rừng
khô, sấu khỏi phải trở về sông Cái.
Trong rừng có sẵn nhiều ao, nhiều lung (2)
, sấu cứ gom vào đó mà lập căn cứ
sanh con đẻ cháu, năm này qua năm khác, cứ
như vậy cho tới khi người Việt Nam
ta đổ tràn xuống rạch Cái Tàu mà lập
nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu
chỉ ở dưới sông, sau khi câu được
chừng năm mười con sấu ở ngọn
rạch họ đinh ninh cho là sấu đã giảm
bớt... Mười phần chết bảy còn ba.
Mãi đến khi có người lên
rừng ăn ong (3)
chạy về loan báo:
- Sấu ở giữa
rừng nhiều như trái mù u chín rụng!
So sánh như vậy,
không phải là quá đáng! Dân làng xúm nhau lên rừng
để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước
một công đất, bên bờ, dưới nước,
toàn là lau sậy, dây cóc kèn (4).Sấu
nổi lên, chen vào những bức tranh mầu xanh
ấy những vệt đen chi chít: con thì nằm
dài như chiếc xuồng lường (5),con
thì dùng hai chân trước mà vạch sậy, ngóng
mỏ xéo lên trời như họng súng thần
công đại bác. Biết có loài người
đến quan sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi
nắng, bắt cá. Duy có con sấu già trợn mắt
hướng về lũ người rồi bò thối
lui vào giữa lòng ao, để thủ thế. Dân
làng nhìn nhau như ra lịnh rút lui. Nghi ngờ gì nữa!
Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa
tam tinh(6)
. Nó là "sấu chúa" sống lâu đời,
nhiều phen kịch chiến với loài người.
Khi ở trên cạn, sấu không nguy hiểm bằng
một con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó
toan dụ địch thủ vào hang của nó nơi
nước sâu. Trong số người khi nãy, có kẻ
cẩn thận mang theo mác thông (7).
, lao, ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng
mớ khí giới ấy chỉ có hiệu lực
đối với cọp, heo rừng. Đằng này,
sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy.
Chống xuồng vào thì ao quá cạn, còn đi bộ
xuống thì lún ngập gối.
Cái ao sấu
ở ngọn rạch Cái Tàu đã bị phát giác.
Tin ấy đồn đãi lần lần, thấu
đến tai ông Năm Hên, người thợ già
chuyên bắt sấu ở Kiên Giang đạo(8)
, tức là
vùng Rạch Giá ngày nay. Ông bơi chiếc xuồng
ba lá nhỏ đến địa phận làng Khánh
Lâm, ngọn rạch Cái Tàu. Trong xuồng, có vỏn
vẹn một lọng nhang trần(9).và
một hũ rượu.
Từ sớm tới
chiều, ông bơi xuồng tới lui theo rạch mà
hát:
Hồn
ở đâu đây?
Hồn
ơi! Hồn hỡi!
Xa
cây xa cối,
Xa
cội xa nhành,
Đầu
bãi cuối gành
Hùm
tha, sấu bắt
Bởi
vì thắt ngặt
Manh
áo chén cơm
U
Minh đỏ ngòm,
Rừng
chàm xanh biếc!
Ta
thương ta tiếc,
Lập
đàn giải oan...
Giọng nghe
ảo não, rùng rợn. Dân làng thấy chuyện kỳ
lạ, xuống đứng dưới bến để
nhìn kỹ. Đoán chừng ông lão nọ là người
có kỳ tài, họ mời ông lên nhà, làm thịt
gà, mua rượu thết đãi.
Sau khi tự xưng
danh tánh, ông bảo
:- Nghe đồn
có ao sấu, tôi chẳng nệ đường xa
để tới xứ Khánh Lâm này...
- Té ra ông thợ
câu sấu!
Ông Năm Hên lắc
đầu:
- Thợ bắt sấu
chớ không phải thợ câu. Hai nghề đó
khác nhau.
Câu thì dùng lưỡi
sắt, móc mồi bằng con vịt sống. Đó
là ở dưới nước. Đằng này tôi
chuyên bắt sấu trên khô, không cần lưỡi.
- Vậy chớ
ông bắt bằng gì?
- Tôi bắt bằng...
hai tay không.
Ai nấy ngạc
nhiên. Ông Năm Hên cười giòn:
- Bà con cô bác
không tin sao?
Ai nấy nửa tin nửa nghi. Họ cố nhớ
lại cách bắt sấu của mấy người
thợ nào đến giờ. Bắt sấu bằng
hai tay không quả là phi phàm, thế gian hi hữu.
Không lẽ ông Năm Hên này lại nói láo để
lường gạt, ổng nào đã mở miệng
xin tiền bạc cơm gạo gì của xóm này!
Ai nấy nôn nao, thiếu điều muốn năn
nỉ ông đi bắt sấu tức thì để
coi thử cách thức.
- Thưa ông, chừng nào ông ra nghề để
cho dân làng chúng tôi được mừng? Nếu
cần tiếp giúp chuyện chi, chúng tôi sẵn
sàng. ở xóm này thiếu gì trai lực lưỡng
đã từng gài bẫy cọp, săn heo rừng.
Ông Năm Hên đáp:
- Sáng mai sớm, đi cũng không muộn. Tôi cần
một người dẫn đường đến
ao cá sấu đó. Có vậy thôi! Chừng một
giờ đồng hồ sau là xong chuyện! Sấu
ở ao giữa rừng, tôi bắt nhiều lần
rồi. Bà con cứ tin tôi. Xưa nay, bị sấu
bắt là người đi ghe xuồng hoặc ngồi
rửa chén dưới bến, có bao giờ sấu
rượt người ta giữa rừng mà ăn
thịt? Tôi đây không tài giỏi gì hết, chẳng
qua là biết mưu mẹo chút ít, theo như
người khác thì họ nói đó là bùa phép
để kiếm tiền. Nghề bắt sấu có
thể làm giàu được ngặt tôi không mang
thứ phú quới đó. Nói thiệt với bà
con: cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em tụi
tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập
rẫy hồi mười hai năm về trước.
Sau được tin cho hay: ảnh bị sấu
ở Ngã ba Đình bắt mất. Tôi thề quyết
trả thù cho anh. Cực lòng biết bao nhiêu khi nghe
ở miệt Rạch Giá, Cà Mau này có nhiều con rạch,
ngã ba, mang tên Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu
Sấu, sau này hỏi lại tôi mới biết
đó là nơi ghê gớm, hồi xưa lúc đất
còn hoang. Rạch Cà Bơ He, đó là chỗ sấu
lội nhiều, người Miên sợ sấu
không dám đi qua nên đặt tên như vậy,
cũng như phá Tam Giang, truông nhà Hồ của
mình ngoài Huế.
* *
Sáng hôm sau, ông Năm Hên đi lên ao sấu, có Tư
Hoạch một tay ăn ong rất rành địa
thế vùng Cái Tàu dẫn đường. Nhiều
người nài nỉ xin đi theo. Ông Năm Hên cản
lại:
- Đi nhiều chộn rộn lắm. Tôi không
giấu nghề với bà con đâu. Có Tư Hoạch
đi theo coi mà.
Đã quá giờ ngọ.
Ngóng về phía ao sấu U Minh hạ, ai nấy
đều thấy một làn khói đen bốc lên.
Ban đầu ngỡ là cháy rừng, chập sau,
khói lụn xuống. Trong lúc đó, bà con xóm Cái
Tàu lo nấu cơm, mua rượu đợi chiều
làm tiệc ăn mừng. Nhưng ngạc nhiên làm
sao, trời về xế, lúc ai nấy đang nghỉ
trên nhà, bỗng nghe tiếng kêu réo từng hồi
:- Bà con ơi! Ra coi sấu... Bốn mươi
lăm con còn sống nhăn.
Rõ ràng là giọng Tư Hoạch.
- Diệu kế ! Diệu kế! Tôi là Tư Hoạch
đi bắt sấu về đây. Bà con coi sấu
lội có hàng dưới sông mình nè! Một đời
người mới có một lần.
Dưới sông, Tư Hoạch ngồi trên xuồng,
bơi nhè nhẹ như đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu,
con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như
khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc kê
trên lưng, hai chân trước tự do, quạt
nước cầm chừng như tiếp sức với
Tư Hoạch để đẩy chiếc bè quái
dị kia đi nhẹ nhàng. Thực tế hay là
chiêm bao? Người thì đứng há miệng sửng
sốt rồi toan chạy vào nhà trốn. Người
khác khấn vái lâm râm, e nay mai xóm này bị trừng
phạt của quỷ thần. Vài người dạn
hơn, bơi xuồng ra giữa sông, nhìn bầy sấu
nọ cho tỏ rõ rồi rước Tư Hoạch
vào bờ hỏi han rối rít.
Đại khái Tư Hoạch trình bày:
- Tới ao sấu, ông Năm Hên đi vòng quanh
dòm địa thế rồi ngồi xuống uống
một chung rượu. Kế đó ổng với
tôi lấy xuổng(10)
đào một
đường nhỏ, ngày một cạn, từ
ao lên rừng chừng mười thước. Xong
xuôi, ông biểu tôi bứt cho ổng một nắm
dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một
đống cây mốp tươi(11),
chặt ra khúc chừng ba tấc.
Lửa châm vô sậy
đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống
đám sậy đế trong ao. Chập sau, bị
khói bay cay mắt, ngộp thở, phần thì nước
sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường
đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm
Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng
đòi táp ổng. ổng đút vô miệng sấu
một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt
hai hàm răng: như mình ngậm một cục mạch
nha quá lớn, muốn há miệng cho rộng để
nhả ra cũng không được. Sau khi bị
khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập
qua đập lại. Ông Năm Hên xách cây mác nhắm
ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để
cắt gân đuôi. Đuôi sấu bị liệt.
Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn trói thúc
ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước
để nó bơi tiếp với mình.
- Thực là bực
thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy
thực quá cao cường. ổng đâu rồi?
Sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất định
đền ơn ổng một số tiền, nuôi
ổng cho tới già, ở xóm này. Bà con tính sao?
Tư Hoạch nói:
- Mà quên! ổng
biểu tôi về trước cho bà con coi thử.
Phần ổng mắc ở lại cúng "đất
đai vương trạch" (12)rồi
đi bộ về sau.
Chưa dứt lời,
bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày một
rõ:
Hồn
ở đâu đây?
Hồn
ơi! Hồn hỡi!
Xa
cây xa cối,
Xa
cội xa nhành,
Đầu
bãi cuối gành,
Hùm
tha, sấu bắt,
Bởi
vì thắt ngặt,
Manh
áo chén cơm,
U
Minh đỏ ngòm,
Rừng
tràm xanh biếc!
Ta
thương ta tiếc,
Lập
đàn giải oan...
Tiếng như khóc
lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai.
Ghê rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi
mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ
ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại
trên tay.
- Coi tướng
của ổng ghê như tướng thầy pháp! Một
người thốt lên như vậy.
Nhưng có tiếng
khóc sụt sùi đâu đây. Đó là vài cụ
già, bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên,
đến bạn bè của mình, biết đâu
trên bước đường sanh nhai giữa chốn
nước đỏ rừng xanh, có thân nhân của
họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó
nhang đang cháy kia có giải oan được cái
chết của họ không chớ?
(1).Trầm
thủy: Loại đất thấp ngậm nước.
(2).
Lung: đầm nhỏ, sình lầy cạn
(3).
Ăn ong: lấy mật ong trong rừng
(4)..Dây
cóc kèn: loại cây dây leo ở rừng nước
mặn bền chắc, dùng để trói buộc rất
tốt.
(5)..Xuồng
lường: xuồng được làm bằng một
cây đục thành (xuồng độc mộc)
(6).Tam
tinh: điểm ở trán, giữa hai mắt.
(7).
Mác thông: mác có cán dài.
(8).
Kiên Giang đạo: đạo là đơn vị
hành chính thời xưa tương đương
một châu, một quận.
(9).Lọn
nhang trần: bó (lọn) nhưng không có bao (trần).
Nhà nghèo dùng loại nhang này, vì rẻ tiền.
(10).
Xuổng: thuổng (dụng cụ để đào
đất).
(11).
Mốp tươi: loại cây như cây vông, gỗ
xốp, dẻo, có thể làm nút chai hay cốt
mũ. Cá sấu ngậm phải khúc gỗ mốp,
hai hàm răng dính chặt không há miệng ra
được nữa.
(12).
Cúng "đất đai vương trạch":
cúng thần cai quản đất đai
(vương trạch, thực ra là viên trạch,
nghĩa là vườn đất, dân gian nói trệch
ra là vương trạch) |