Dựng xong căn lều trên mảnh nương
mới được người bạn nhường
cho, ông Chúng mang mấy chiếc nồi bé sang, cả
gạo, muối, dầu thắp, cả một con
trong đàn chó canh nhà. Lúc bà hỏi ông, định
đi luôn không về hay sao mà mang lắm thứ thế,
ông bảo phải qua sông, lại cũng xa nữa,
nên thỉnh thoảng ông phải ở lại. Thực
ra chính ông cũng biết đó chỉ là cái cớ,
chứ nếu ông đi vắng thường xuyên
thì nhà ông như thiếu tường đất,
mưa không biết lấy gì che, gió không biết lấy
gì chống. Chưa kể gần đây thỉnh
thoảng lại có nhà trong bản bị mất trộm
dê lợn, có nhà đã mất cả bò. Thế mà
cánh cổng gỗ vào nhà đã có từ đời
ông bà, chưa một lần thay, cài then thì cũng
chỉ để đánh lừa mắt thôi, người
khoẻ xô nhẹ là bật ra ngay rồi. Chẳng
phải ông không biết lo việc nhà, chẳng phải
ông bỏ đi để hàng ngày được
rượu thịt một mình. Lúc này ông thấy
trong nhà mình khó ở quá, giống như trời sắp
dông mà mấy ngày liền không mưa được.
Nhìn dáng con May ngồi thái dọc mùng trắng cho lợn
mới thấy thời gian trôi đi nhanh quá, thằng
Trài cũng cao hơn con dao quắm dựng góc nhà rồi.
Chỉ phải lo cho hai đứa con một vài năm
nữa thôi, đến lúc chúng như cánh chim rời
tổ thì với ông sống hay chết, no hay đói,
giàu hay nghèo cũng chẳng cần phải nghĩ
đến nữa. Cả bà chắc cũng nghĩ
như ông thôi...
Ông Chúng sang nương, mấy ngày đầu nhà
vắng quá, bữa cơm nào cũng mang thừa bát
đũa. Đến tối May sang ngủ chung với
mẹ già. Thường thì cứ phải đến
lúc May chập chờn ngủ rồi mẹ già mới
vào. Hôm nào mẹ cũng phải đi một vòng
xem lại cửa cổng, dập hết than trong bếp
lò, mang chó ra buộc gần chuồng ngựa. Lúc mẹ
già vào, May ôm lấy mẹ thật chặt. Người
May nóng gần bằng cái bếp lò, mẹ già bảo
thế.
Đêm nay May đi ngủ muộn, phần vì nhà
đã vắng càng vắng - thằng Trài mang ngựa
đi lấy giống, mẹ già đi xem bệnh
cho trẻ con nhà Chứ - phần vì ngoài kia, sau bờ
rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất
lên, gọi mãi, gọi mãi. Tiếng đàn ấy
may gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần
nào cũng đuổi sau lưng, May đi nhanh thì
theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ
lại dám theo về tận nhà người ta nữa.
Đã mấy lần May đứng dậy, ngập
ngừng định đi ra cửa mà chân cứ
run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu
được vài đường đã nhầm,
kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi
May cũng giữ được chân mình mặc kệ
tiếng đàn môi ấy, dội lửa vào gộc
củi rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh
quẩn bên ngoài mãi mới chịu đi. Tiếng
bước chân ngựa cũng ngập ngừng.
Đi ngựa là người ở xa đến rồi.
Đi xa mà đứng lâu như thế dưới
sương có khi lại ốm.
May nằm mãi cũng chẳng ngủ được.
Trên gác nhà, con mèo mẹ tha đàn con đi đi lại
lại suốt, lục sục trong đống ngô bắp.
Nhà không có đủ người, gió lùa từ
đầu hồi này tới đầu hồi kia,
nghe mỏi cả tai. Nhằm mắt rồi mở mắt,
May cố không nhìn vào cái hòm gỗ to lù lù góc buồng.
Trong cái hòm ấy mẹ già cất một bộ
váy áo đẹp lắm, thêu bảy màu như cầu
vồng, mẹ bảo bao giờ con May lấy chồng
thì mẹ cho mang theo. Vậy mà mới đêm hôm
qua, lúc gần sáng May thức giấc lại thấy
mẹ già mở hòm lấy bộ váy áo ấy ra. Mẹ
già định mặc váy áo đẹp đến
thế đi đâu? Hết mùa cưới rồi,
họ hàng chắc cũng không còn ai cưới vợ
cưới chồng cho con nữa. Mẹ già đi
đâu? Hay là mẹ già định đi hội chợ
27 tới đây? Nếu thế thì... thì sao hở
May? Có phải vì bố bỏ sang nương không?
Hay vì bố biết mẹ già định đi hội
chợ tháng 3 năm nay mà bố đi? Lâu lâu không
nghĩ đến chuyện bố mang gạo muối
sang bên kia sông Nho Quế, bây giờ nghĩ lại
mới thấy có điều gì đó không bình thường,
không giống như việc đàn ông các nhà khác
làm lều trên nương canh dê bò, canh khỉ
trên rừng về phá. Càng nghĩ càng thấy khó
tìm lối ra, càng khó ngủ. Tự dưng May lo lo,
không rõ mình lo gì, nhưng như có ai đốt lửa
trong bụng. Ngoài hè, giọt sương đọng
trên mái tranh rơi xuống bể nước đá
cạn khô càng lúc càng to, nghe giống tiếng mưa
lác đác.
Năm nay trời rét đậm hơn mọi
năm, lại rét muộn nữa. Rét muộn thì sẽ
rét lâu rét dài, tháng ba tháng tư có nắng rồi
vẫn rét. Ra giêng hoa đào hoa lê mới đua
nhau nở, ai cũng bảo năm nay Tết mùng năm
tháng năm sẽ mất vui. Nhưng Tết mùng năm
còn lâu mới tới, trời thay đổi tính nết
thì con người khổ, khổ vì gieo hạt ngô
lúa xuống đất mãi vẫn chưa thấy lá
chồi lên. Đất càng ngày càng khô đi.
ở những nương đá mới xếp
đất xẹp dí xuống, đợi hạt giống
đâm mầm lá lên mới bón thêm phân được.
Nhưng lo thì cứ lo vậy thôi, hội 27 vẫn
chẳng kém vui hơn mọi năm đâu.Có tiếng
chó đầu nhà rên ư ử, đuôi quẫy
đập vào tường đất lạch phạch.
Ông Chúng về. Mẹ già mới về trước
một lúc lập cập ra mở cửa, xuýt xoa:
- Về sớm thế? Sao không để sáng hẳn
ra, sương tan cho đỡ lạnh.- ừ... - Tiếng
ông khàn khàn - Cũng định thế. Nhưng có
mấy người trên Xíu cái xuống sớm, bảo
cho đi nhờ thuyền sang bên này, tiện thể
về luôn. ở nhà có việc gì không?- Vẫn thế
thôi, chỉ có mấy thanh chuồng ngựa sắp
gãy. Hôm nào ông về lâu lâu thì sửa nhé.
- Được rồi, cứ để đấy,
tí nữa tôi sửa luôn.ở nhà này thứ gì cũng
cũ, cũng già. Cả cái chuồng ngựa cũng
thế. Ngày xưa bố ông Chúng dựng bằng gỗ
lim từ lúc con trai út chưa ra đời. Mấy
chục năm rồi, không nhớ đã có bao
nhiêu đời ngựa, bây giờ mới hỏng
cần phải sửa là bền quá còn gì.Trời
sáng hẳn, ông Chúng đi một vòng quanh nhà, xem kỹ
chỗ chồng ngựa chuồng dê rồi mang dao,
cưa ra sửa luôn. Bà ra theo ông, xem có cần gì
thì giúp. Vừa làm ông Chúng vừa bảo vợ:
- Mẹ già này, năm nay xuân muộn, người
đi chợ 27 đông lắm, nấu được
ít rượu ngô đem bán thì tốt quá.
- Không phải nấu cũng còn đầy kia kìa.
Trước Tết nhà Sùng nhờ nấu mấy nồi
cho nó lấy con dâu mới, sau họ hàng giúp nhiều
quá lại không dùng đến.
- Thế thì bà mang ngựa thồ đi bán nhé.
Giọng nói của ông có gì khang khác, bà cảm
thấy thế. Rượu nhà mình tự nấu,
để bao lâu cũng được, càng để
lâu uống càng ngon. Mà từ giờ đến Tết
năm sau còn có bao nhiêu dịp cần đến
rượu, sao ông lại giục bà đi bán. Bà
nhìn mãi sang ông nhưng ông vẫn cắm cúi làm, như
không để ý, như chỉ vô tình nói ra chuyện
đi chợ bán rượu. Ai cũng biết mang
rượu đi chợ 27 để người bán
người mua uống cùng với nhau. Uống cho
say rồi người mua không nhớ trả tiền
cũng được, mà nhớ nhưng trong túi chỉ
còn vài đồng không đủ mua túi muối,
mang ra trả cũng được. Chợ ngày 27
nhưng từ 21, 22 đã lác đác có người,
có rượu. Cả năm cúi mặt ngoài nương,
cúi mặt vì hạt ngô hạt đậu, về
nhà cúi mặt vì con lợn con gà, mãi mới có lúc
thảnh thơi. Không bị trẻ con quấn chân
nên ở chợ mọi người tha hồ
chơi, tha hồ uống rượu. Đàn ông
quên dao, quên nỏ, đàn bà quên chảo cám, quên
cái đũa cả, chẳng ai chê cười.
Giữa ông Chúng với vợ đúng là có bao
nhiêu thứ khó nói ra thành câu thành tiếng. Tất
cả cũng chỉ tại một người mới
đến, rồi lại đi trước Tết.
Đi luôn thì thôi, đằng này còn hẹn ra xuân
sẽ quay lại. Nếu đúng lời hẹn thì
người ấy cũng sắp quay lại rồi.
Trước Tết một tháng, đúng hôm mẹ
già với May làm bánh khảo thì nhà có khách. Khách
ấy là mẹ Hoa. Lúc May ra mở cổng, May nhận
ra mẹ Hoa ngay, nhưng mẹ Hoa cứ đứng
nhìn May mãi, nhìn không chớp mắt. May không nghĩ
mình lớn đến mức khó nhận ra thế.
Ngay lúc ấy May đã quay lưng đi như chạy
vào nhà ngay, mặc kệ mẹ Hoa kéo lê cái túi to
đùng trên đất đi sau. Người May tự
dưng nóng bừng lên, hai đầu gối run bần
bật. Có cái gì đó như một cơn gió lạ
đã ùa đến, rồi sẽ hất tung mọi
thứ trong nhà lên, sẽ chẳng có thứ gì
được ở yên chỗ của mình nữa.
Sao tự dưng mẹ Hoa lại về, sao không
đi luôn. Chị em May đã sắp quên chuyện
cũ đi, giờ lại phải nhớ hay sao?
Mẹ Hoa đi vào trong nhà, cúi đầu chào bố
đang ngồi bên bàn uống nước. Bố
May nhìn ra:- à... lại về nhà đấy!- Vâng...
mẹ Hoa lí nhí, đầu cúi thấp hơn nữa,
tay mân mê hai cái quai túi đặt trước mặt.
- Về làm gì? Bố hỏi mà như không hỏi
- Em... em về chơi thôi. Xem mọi người
thế nào.
- Thế nào à? Chẳng thế nào hết. Người
lớn thì già đi, trẻ con thì lớn lên...
Bố nói như không có người đứng
nghe ngay trước mặt. Bố gọi May, gọi
thằng Trài. Chỉ mình thằng Trài vào, còn May
đứng đầu hồi, như không nghe tiếng
bố.
Mẹ già đi ra, bảo mang củi ướt
ngoài chuồng ngựa vào cho mẹ gác lên bếp
lò, ghé vào tai May nói như mắng:
- Không được thế con gái à. Mẹ Hoa
chứ có phải người lạ gặp ngoài
đường đâu. Lâu quá nó mới về
nhà, nhưng con gái vẫn không quên đâu, phải
thế không?
May quay lại trả lời mẹ già:
- Con còn nhờ hơn cả mẹ, mẹ già
ạ. Nhớ hết. Nhớ cả con bò bị người
ta dắt đi...- ầy, chuyện cũ đừng
nhắc nữa. Cái gì cần nhớ hãy nhớ,
cái gì nên quên phải biết quên. Hôm qua trời mưa
nước suối đục, nhưng không đục
mãi được. Con người cũng thế...Mặc
kệ mẹ già nói gì thì nói, May cũng không tự
bắt mình quên được. May chạy ra chạy
vào, hùng hục mang tất cả số củi
ướt ngoài chuồng ngựa vào chất cao gần
chạm gác bếp ở sau lò. Một thanh củi rơi
cả vào chảo cám đang sôi sùng sục. Mặc
kệ. Mồ hôi túa ra trên mặt May, áo vay bê bết
đất. Chuyến cuối cùng, thằng Trài
đứng chặn ở cửa, nhìn chị từ
trên xuống:
- Chị là đứa trẻ con bốn, năm tuổi
à?
May mím môi. Thằng Trài người thì to thật
đấy nhưng ý nghĩ thì bé, bây giờ đã
dám nói cái giọng ấy với chị nó rồi
cơ đấy. May giằng tay em ra, mang số củi
ướt vào phía sau bếp lò, cầm lấy thanh
củi trong chảo cám quấy tung cả lên.
Mẹ già về làm vợ ông Chúng đã hơn
hai chục năm. Ngày ấy cả vùng này biết
tiếng cô Mao đẹp người nết
cũng đẹp, con gái bản trên làng dưới
không ai dám nhận mình thêu thùa, dệt vải vừa
nhanh vừa đẹp như cô. Cả vùng cũng
chỉ có nhà anh Chúng chồng đủ bạc trắng,
đủ gạo, rượu như bố mẹ
Mao thách cưới, vậy là Mao về làm dâu nhà
Chúng. Trước ngày cưới, cả đêm tiếng
chân ngựa bồn chồn ngoài bờ rào đá
làm Mao thức trắng. Mờ sáng thì con ngựa
ấy bỏ đi, một lúc sau thì tiếng đàn
môi cất lên từ sau hẻm núi. Tiếng đàn
môi nghe rất xa. Mao ngồi dậy, nhìn qua ô cửa
bé bằng hai bàn tay, thấy ngoài trời mù mịt
sương ập xuống mảnh sân, vườn,
nhìn từ nhà ra bờ rào đã không thấy rõ.
Tiếng đàn môi từ rất xa kia lại giống
như mũi tên xuyên qua thấy rõ. Tiếng đàn
môi từ rất xa kia lại giống như mũi
tên xuyên qua sương dày đặc, lao đến.
Tiếng đàn môi buồn rầu, trách móc. Mao lặng
lẽ khóc, từ hôm ấy Mao không bao giờ nghe
tiếng đàn Môi dành cho riêng mình nữa.
Sau ngày cưới một năm, hai năm, rồi
ba năm, chờ mãi mà vợ chống Mao vẫn chưa
có con. Lúc đầu nhà chồng còn chạy tìm thầy
tìm thuốc sau thấykhông làm được gì
đành thôi. Bố chồng, mẹ chồng nối
nhau đi, thương con dâu như con gái nên không
đành mở miệng bảo con trai đi tìm vợ
mới, dù cả họ chỉ còn mỗi một người
đàn ông trẻ nhất là Chúng.
Còn lại hai vợ chồng, bao nhiêu lần Mao
nói với Chúng, hay là Chúng để Mao về nhà
mẹ đẻ, cho Chúng đi lấy vợ mới,
nhưng Chúng không nghe. Chúng phải giữ lấy
Mao như giữ cánh cửa trong nhà mình. Chúng biết
mình chẳng tìm được ở đâu một
người thay được chỗ của Mao. Mỗi
lần có việc phải ra khỏi nhà Chúng cũng
đều cố gắng nhanh nhanh cho xong việc
để còn về. Chúng sợ Mao ở một
mình lại buồn, sợ Mao đắp nửa
chăn, nằm nửa giường lạnh không ngủ
được.
Năm ấy, người ta mở đường
lên Thượng Sơn, cả bản nhà nào cũng
phải có một người ra khuân đất
đá. Ngày nào Mao cũng dậy sớm đồ xôi,
nướng gà cho Chúng ăn no, còn gói để Chúng
mang theo ăn trưa luôn. Nhưng càng ngày con
đường càng xa, làm xong không kịp về
nhà, Chúng phải mang gạo đi, đến công
trường góp nấu cơm chung với người
ta. Vài ba hôm Chúng mới tranh thủ về
được một lần. Lần nào cũng
động viên Mao chịu khó ở một mình ít
ngày nữa, đường sắp xong rồi.
Nhưng cũng phải hết mùa khô thì con
đường nối mấy xã với nhau mới
hoàn thành. Căn nhà rộng vắng bóng Chúng lâu
quá nên chỗ nào cũng lành lạnh, ngày Chúng về
Mao đang ốm, đã mấy hôm liền không
ăn uống gì.
Nhưng Chúng không về một mình. Đi theo Chúng
còn có một người cùng trong đội dân
công. Người ấy là một cô gái trẻ, trẻ
hơn Mao mấy tuổi, người miền xuôi.
Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của
mình sang căn buồng của mẹ chồng
trước kia. Căn buồng thường xuyên
được Mao quét dọn, nhưng thiếu
người ở nên cứ như cái nhà hoang. Lúc
Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà chồng ra
thì Chúng đứng ở cửa buồng,
đưa tay ra như muốn giữ Mao lại. Mao
nhìn vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng không chịu
được ánh mắt Mao phải quay mặt
để Mao bước ra. Đêm hôm ấy Chúng
ngồi gọt chuôi dao bên bếp lò, muộn lắm
mà không đi ngủ. Mao dọn dẹp nhà cửa
xong cũng không đi ngủ mà mang bó mùng trắng
ra thái. Hai người không ai nói gì, chỉ nghe tiếng
dao thái vào thân mùng phầm phập. Mao đứng
dậy, đổ dọc mùng vào chảo cám, cúi xuống
đẩy mấy gộc củi vào sâu trong bếp,
lúc ấy Chúng mới kéo áo Mao, bảo Mao ngồi
xuống cạnh mình. Nhưng hai người ngồi
cạnh nhau rồi mà Chúng vẫn cứ gọt
mãi, gọt mãi cái chuôi dao, gọt cả vào ngón
tay, máu gứa ra. Đưa ngón tay bị đứt
lên miệng, Chúnh không biết bắt đầu
như thế nào. Mao vẫn nhìn chằm chằm
vào bếp lửa, ánh lửa hắt lên mặt Mao
đỏ hồng, tự dưng Chúng thấy sờ
sợ Mao, thà Mao cứ nói gì thật to với
Chúng còn hơn.
Từ hôm ấy nhà có ba người. Ba người
ngủ ở ba cái giường, ba góc nhà. Ba người
không mấy lúc nói chuyện với nhau, Mao dưới
bếp, Hoa trên nhà, Chúng ngoài vườn, chỉ bữa
cơm mới ngồi gần nhau. Đêm nào cũng
nghe thấy tiếng kọt kẹt từ ba cái giường.
Dậy sớm hay dậy muộn thì cả ba người
đều quầng hai mắt. Sống thế thì khổ
quá, rồi đến lúc ốm cả thì sao? Một
đêm, Chúng ngồi dậy, đi đến cửa
buồng bên phải, cửa buồng cài chặt
bên trong, Chúng đứng một lúc lâu, khe khẽ
ho, nhưng cửa vẫn đóng kín cũng không
nghe thấy tiếng người trong buồng thức
dậy. Lúc ấy, buồng bên trái tự dưng có
tiếng khóc. Tiếng khóc của người
đang úp mặt xuống gối. Cửa buồng
bên ấy lại không cài, chỉ khép hờ. Trời
lạnh mà mồ hôi vã ra đầm đìa trên mặt
Chúng...
Sau khi con bé May ra đời, Hoa ở lại chứ
không bỏ đi như Chúng nói với Mao. Nhưng
đúng là Hoa không quen làm nương, không biết
trỉa đậu, vun đậu, nhóm cái bếp
lò cũng không nổi. May được hơn hai
tháng tuổi thì mẹ Hoa để May ở nhà với
mẹ già rồi xuống phố huyện mở sạp
hàng bán giày vải, thỉnh thoảng mới về.
May bé như con mèo con. Từ sáng đến tối
khuya, lúc nào cũng nằm trong địu trên lưng
mẹ già. Không biết bao nhiêu lần May ngậm
hai bầu ngực mẹ già, nhay đến bật
máu vì thèm sữa. May lên hai tuổi, còn chưa trèo
qua được bậu cửa thì mẹ Hoa đẻ
thêm thằng Trài. Thằng Trài lại ngồi trong
địu, thay chỗ của May, lại nhay bầu
vú chưa bao giờ có sữa của mẹ già.
Mẹ Hoa ngày càng ít về, mỗi lần về
cũng chỉ một lúc, không kịp ăn cơm
lại đi. Lần nào về cũng mang cho hai chị
em May cả túi kẹo màu to tướng, cả giày
dép áo quần. Nhưng lần nào cũng vậy, chị
em May lại mang kẹo ra đổ vào máng ngựa,
quần áo cũng không mặc đến, mặc váy
áo mẹ già dệt quen rồi. Quần áo mẹ
Hoa mang về cứ để mãi trong hòm...
Năm May lên mười một tuổi, em Trài
lên chín thì mẹ Hoa về nhà lần cuối cùng
rồi đi hẳn. Lần ấy mẹ Hoa ăn
cơm rồi ngủ lại một đêm với
ba mẹ con. Bố May đi săn không về, chị
em May đi ngủ sớm, sáng hôm sau thức dậy
đã không thấy mẹ Hoa đâu. Mẹ già cũng
chỉ bảo là mẹ Hoa đi sớm lắm, khắc
tự dậy mở cửa rồi đi. Cũng
đêm ấy, con bò cày bị mất trộm, ai
đó đã tháo thanh cài cửa chuồng, dắt
bò đi. Nhà chỉ có một con bò cày, mất bò
thì người phải làm thay bò thôi. Gần trưa
hôm ấy ông Chúng mới đi săn về, May ôm
lấy chân bố, kể chuyện mẹ Hoa về,
chuyện mất trộm bò. Không thấy bố và
mẹ già nói gì với nhau về chuyện ấy.
Mấy đêm liền bố May không ngủ, ngồi
uống rượu khan ngoài hè, xung quanh là đàn
chó con lớn con bé nằm chồng lên nhau.
Vụ mùa năm ấy, vụ sau nữa, hai bố
mẹ May phải mang cuốc đi cuốc đất
thay bò. Bàn tay mẹ già đã chai càng thêm chai thêm,
vết chai dày cộp như miếng cháy trong nồi
cám. Đêm nào mẹ già cũng lấy hai bàn tay
đầy vết chai ấy xoa lưng cho hai chị
em May dễ ngủ.
Mẹ Hoa đã đi suốt bao nhiêu ngày bao
nhiêu tháng, ai cũng nghĩ là mẹ Hoa không bao giờ
về nữa. Mấy lần ông Chúng xuống huyện
cũng không thấy Hoa ngồi bán hàng ở đó.
Bằng ấy ngày tháng, đủ cho bọn trẻ
con sắp thành người lớn cả rồi,
Hoa còn trở lại. Chẳng lẽ giống như
người đi mãi mà không tới được
nơi cần đến, không còn sức nữa
nên quay về tìm chỗ nghỉ chân?
Mẹ Hoa về làm cái gia đình đang yên
ổn như tổ chim trên cao lộn tung cả
lên. Hoa đã nói những gì ông Chúng chẳng nhớ
hết, vì ông không muốn nghe thì nói gì cũng thế
thôi, chỉ đến khi mẹ Hoa ngỏ ý
đưa con bé May với thằng Trài về xuôi
thăm họ hàng, ăn Tết, thì ông đã quát
lên. Nhà ông không phải vườn ổi hoang, ai
thích đến hái thì cứ hái như trẻ
chăn bò.
Nói với ông khó quá thì mẹ Hoa tìm mẹ già.
Sau một đêm, thức dậy ông thấy hai mắt
mẹ già trũng xuống, tay bưng chậu cám
run như phải cảm. Ông cứ chờ xem bà có
nói gì với mình không nhưng bà im lặng mãi, cắm
cúi làm, không buồn ngẩng mặt lên.
Mẹ già thì tránh mắt ông, ông lại tránh mắt
mẹ Hoa. Mẹ Hoa vẫn đẹp như bông lê
đang độ nở rộ ngày trời ấm. Mẹ
Hoa chỉ kém mẹ già mấy tuổi mà trông như
con gái của mẹ già. Có lúc mẹ Hoa nhìn ông,
nhìn muốn cháy cả mặt. Lúc mẹ Hoa vén quần
rửa chân, để lộ hai bắp chân tròn hơn
cả bắp chân con May, thì ông xua tất cả những
ý nghĩ lạ sắp đến trong đầu mình
đi. Mẹ Hoa lại vào ngủ trong buồng
trái, không cần ai bảo. Từ ngày mẹ Hoa
đi, ông ngủ một mình ở đấy. Bà
Mao lấy cớ đã ngủ quen bên kia với bọn
trẻ con, dứt khoát không chuyển đồ sang
lại nữa.
Ông lại ngồi uống rượu khan.
Lưng áo ông lạnh buốt. Sau lưng ông là cửa
buồng trái khép hờ, trước mặt là ngọn
đèn cạn dầu, ngọn lửa cháy đã có
mùi khét của bấc.
Mẹ Hoa không sao nói chuyện được với
May. May tránh mặt mẹ đẻ. May bảo với
bố, mẹ Hoa chỉ như con thú hoang ở
đâu lạc vào nhà mình thôi, lúc nào không muốn
ở nữa thì đuổi đi. May biết, lúc
nào phía sau, bên cạnh mình cũng có ánh mắt mẹ
Hoa nhìn mình. Thằng Trài khác May, nó đã chịu
nói chuyện với mẹ Hoa. May đâm ra ghét cả
Trài, hai chị em cũng không nói chuyện với
nhau nốt. Lúc nào May cũng chỉ thấy hai bàn
tay khô như hai cành mua cong queo, đầy vết
chai dầy như miếng cháy trong chảo cám của
mẹ già trước mắt mình.
Mãi đến lúc mẹ Hoa xách túi đi May mới
nhìn thẳng vào mẹ một lần, lần đầu
tiên từ hôm mẹ về. Và May đã giật
mình, đã tự dưng thấy đau buốt
trong ngực. Hai mắt mẹ Hoa - đôi mắt mà
mẹ già vẫn bảo là thứ để người
khác nhìn vào nhận ra May - đôi mắt ấy
đỏ như chảy máu, mí mắt sưng to,
hai gò má mẹ Hoa trắng nhợt. Nhưng May vẫn
không nói với mẹ Hoa một lời nào, miệng
May như có ai khâu chặt lại.
May đã quay mặt đi, tránh ánh mắt mẹ
Hoa, May không đủ sức nhìn lâu hơn. Mẹ
Hoa đã đi, một lúc đã không thấy đâu
giữa những triền ngô xơ xác vừa qua vụ
thu hoạch. May vùng chạy ra khỏi nhà, chạy về
phía con suối nằm rất sâu trong rừng. Mẹ
già đang giặt ở đấy, váy áo ướt
đã phơi đầy trên những tảng đá
lớn trên bờ suối. May chạy xuống, ngã
dúi vào mẹ già, khóc oà lên:
- Đi... đi rồi, mẹ già ơi! Mẹ Hoa
ấy...
Mẹ già ôm lấy vai May. Nước suối lạnh
buốt đập vào gờ đá, bắn ướt
chân váy hai mẹ con. Mẹ già khe khẽ thở
dài...
May gặp người ấy rồi. Có một tối
ngồi trong nhà, nghe tiếng đàn môi gọi mãi,
giục mãi. May đã liều bước chân ra cổng.
Người ấy ở Thượng Sơn xuống,
còn trẻ lắm, hơn May một, hai tuổi là
cùng, nhưng May chỉ đứng cao đến vai
người ấy. Dưới ánh trăng hạ tuần
mờ mờ May không nhìn được rõ mặt,
nhưng cảm thấy rất rõ ánh mắt như
có lửa của người ấy nhìn mình như
thế nào. Đêm đầu tiên May chỉ dám
đứng một lúc, run quá, chạy vội vào
nhà, May sợ mình đứng thêm nữa thì ngã mất.
Dần dần đỡ sợ hơn, May đứng
thêm một lúc, có hôm sương rơi ướt
vành khăn mới vào nhà. Giờ thì May đã nhận
lời đi hội chợ hai bảy với người
ấy.
Ngày mai Chử đợi May ở ngã ba, từ
ngã ba đến chợ còn một đoạn nữa,
đến nơi chắc trời cũng tối rồi.
Cả đêm May không sao ngủ được.
Đã cố tình đi ngủ muộn mà đến
lúc vào giường, nằm mãi vẫn chưa thấy
gà gáy. May nói dối mẹ già là ngày mai cái Ly rủ
May sang nhà nó làm bánh, mẹ già không nói gì, chỉ
dặn đến nhà người khác phải nhớ
chào hỏi người già, không được
đi ngủ trước người già như
ở nhà mình.
Trời mờ sáng May đã dắt ngựa ra. Con
ngựa đen như hiểu ý May, ngoan ngoãn để
May đặt yên lên lưng.
May run quá, chỉ sợ gặp người quen
trong bản, người ta lại kể với bố
mẹ thì thế nào cũng bị mắng vì tội
nói dối. Nhưng sợ thì cũng cứ đi, có
người đi cùng mình còn sợ cái gì. Không ngờ
ở chợ ấy May gặp đến 3, 4 đứa
bạn gái cùng bản, đứa nào cũng đi
với một anh con trai lạ. Nhìn thấy nhau,
không đứa nào nói gì, cứ làm như không
quen, quay mặt đi mới tủm tỉm cười.
Đêm xuống, có một thanh niên đốt đống
lửa to ở giữa bãi còn, ai có cái gì mang theo
thì bỏ ra ăn chung. May và bạn May cũng buộc
ngựa một góc rồi ra đấy ngồi cùng.
Xung quanh đống lửa càng lúc càng đông người,
toàn con trai con gái trẻ. Giờ thì không thấy ai
xấu hổ nữa. Má đám con gái đỏ rực
nhưng là vì ánh lửa. Ai cũng như mình thì việc
gì phải xấu hổ.
Sáng hôm sau, đúng ngày 27 tháng 3, mặt trời
mãi mới nhô lên sau cánh rừng đỏ rực.
Chử kéo tay May ra phía người ta ngồi thành
hàng dài, rượu đựng trong can to để
trước mặt. Nhưng ngồi uống rượu
lâu cả buổi thì chỉ có người già
thôi, bọn thanh niên ghé qua một tí rồi tìm chỗ
khác, ít bị người ta nhìn thấy mà ngồi.
Vừa ngồi xuống một hàng rượu,
chưa kịp nói gì với người bán thì
đột nhiên May kéo Chử đứng bật dậy:
Đi! Đi chỗ khác. Nhanh lên.
Vừa nói May vừa kéo Chử đi như chạy,
xa chỗ bán rượu càng nhanh càng tốt. May vừa
nhìn thấy, May không nhìn nhầm, nhất định
May không nhầm, người mặc váy áo màu như
cầu vồng ấy là mẹ già. Mẹ già
đang ngồi sau quẩy tấu gùi rượu, mặt
đỏ rực. Còn người ngồi phía bên
kia quẩy tấu có phải là bạn cũ của
mẹ già? Là người thề không bao giờ chơi
đàn môi nữa từ ngày mẹ già đi làm
dâu, có phải người ấy không?
May kéo Chử đi, còn Chử nhìn May, nhìn mãi
không nói được câu gì. Nhà Chử chỉ
có hai bố con. Mẹ Chử chết bệnh từ
khi đứa con trai đang bám bậu cửa tập
đi. Lên sáu tuổi, Chử đã được
bố dạy thổi kèn, lên mười tuổi Chử
đã theo bố lên nương. Biết chuyện,
bạn May có đứa đùa, bảo May về
nhà ấy làm dâu thì sướng, vì Chử thổi
kèn còn hay hơn cả bố, vì May không phải
chiều mẹ chồng...
Muộn lắm May mới về tới nhà. Mẹ
già đang ngồi hong tay trước cửa bếp
lò mới bén lửa, giục May lấy nước
ấm đi rửa chân tay. Mẹ già đã mặc
bộ váy áo ở nhà nhưng lại quên thay thay khăn.
May ngồi xuống bên cạnh. Mẹ già bảo bố
đưa mẹ Hoa xuống phố huyện chưa
về, mẹ Hoa mới lên chiều hôm qua. Mẹ
Hoa lại lên. Chuyện ấy có đáng nghĩ
đến không? Sao mẹ già chẳng nói gì thêm?
May ngập ngừng:
- Mẹ già định... định thế nào?
- Thế con gái bảo mẹ phải làm gì? Mẹ
già quay sang nhìn May rồi lại quay đi, cằm tì
lên hai đầu gối, tay cầm thanh củi dụi
mãi vào bếp lò đang cháy to dần, một lúc
lâu mới tiếp:
- Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ
là cục đá kê chân cột nhà chồng thôi.
ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến
lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột
thế thôi...Nghe mẹ già nói May ứa nước
mắt ra. Vậy là hai mươi năm nay mẹ
già vẫn nghĩ đến chỉ là cục đá,
mẹ già không nhận chị em May hay sao? Mẹ
già định trả chị em May cho mẹ Hoa
như người ta mượn ngựa rồi trả
ngựa hay sao? Trả xong rồi thì mẹ già làm
gì nữa? Chẳng lẽ bằng ấy tuổi rồi
còn định sang nhà khác tiếp tục làm cục
đá kê cột? May kéo ghế ngồi xích lại
gần mẹ già hơn một tí, không biết nói
gì cho phải, bụng dạ đau thắt như có
ai cầm dao sắc mà cứa.
Khuya rồi vẫn không thấy bố về. Bây
giờ đường tốt rồi, người
ta đi về chỉ mất chưa hết nửa
ngày, vậy mà bố đi lâu thế? Chẳng ai bảo
ai nhưng hai mẹ con đều có ý chờ, chờ
đến tàn gộc củi mới đi ngủ.
Nhưng vừa nằm một lúc, chập chờn
ngủ thì May nghe có tiếng đàn môi cất lên.
Tiếng đàn ở ngay ngoài cổng gỗ chứ
không gọi ở đầu nhà như lần
trước. May định mặc kệ, vừa mới
chào nhau, mùi tóc quen quen còn chưa bay hết, lại
buồn ngủ nữa. Nhưng tiếng đàn cứ
gọi mãi, gọi mãi, mà tiếng đàn môi đêm
nay cũng có gì khang khác, dài hơn trầm hơn,
ngập ngừng hơn, vẫn tràn qua bờ đá
vừa dày vừa cao như suối chảy. Nghe bao
nhiêu lần mà lần nào May cũng hồi hộp,
tim đập thình thịch. Đột nhiên mẹ
già khẽ khàng ra khỏi chăn, chắc lúc đi
ngủ mẹ quên chưa buộc con chó ra ngoài chuồng
ngựa rồi. Đợi mẹ mở cửa, May
cũng tung chăn ra. Ra bảo Chử về đi
thôi. Về nghỉ mai còn đi làm chứ.
May đi như chạy ra sân, đầu va cả
vào dây phơi treo đậu tương định
ra rồi vào luôn để mẹ già không biết.
Nhưng vừa đi qua sân bất chợt May sững
lại. Ngay trước mặt May, cách chỉ hai bước
chân là mẹ già. Mẹ già quay lưng lại phía
May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột
trên vai, tay mẹ già đang nắm chặt thanh gỗ
gài hai cánh cổng...
May bíu lấy gốc cây lê, cố thở thật
khẽ. ánh trăng cuối tuần mờ quá. Gió lạnh
từ trong khe núi ào ra, mấy chiếc lá lê già
còn sót lại rụng nốt, quệt vào bờ
rào đá lạt sạt.../.
Đỗ Bích Thuý (Văn nghệ
Quân đội)