Hồi ấy, nghĩa là cách đây tròn hai mươi
năm, tôi, hai mươi tuổi cùng các "chiến
hữu" của tôi đang huấn luyện
ở vùng trung du Vĩnh Phú, cách thị xã Vĩnh Yên
7 km về phía núi Tam Đảo. Chúng tôi thuộc
quân số trung đoàn 207 xe tăng thiết giáp. Mới
nghe đến đây thôi, hẳn có bạn thắc
mắc sao đã gọi là "xe tăng" lại
còn "thiết giáp"? Xin thưa đó là hai
danh từ khác nhau để gọi hai loại xe khác
nhau. Xin cung cấp với các bạn một định
nghĩa rút gọn của xe tăng: "Là một
loại xe chiến đấu chạy bằng xích
có tháp pháo quay tròn 360 độ". Thế
nghĩa là nó khác với thiết giáp là có pháo, lại
không giống với pháo tự hành là pháo của
nó có thể quay 360 độ trên xe. Câu chuyện của
chúng tôi hai mươi năm trước trên vùng
đồi trung du Vĩnh Phú có liên quan đến cái
"tháp pháo quay tròn 360 độ" ấy. Thế
là chúng tôi thuộc trung đoàn 207. Tiểu đoàn
và đại đội mấy thì không nhớ nữa.
Đơn vị huấn luyện mà lính đến
rồi đi không mấy gắn bó - chỉ nhớ
rằng tham mưu trưởng trung đoàn là ông
Phùng Minh, một đại úy có phong độ rất
"hắc xì dầu". Và ngay tại đây,
trong mùa hè nóng bỏng năm 1972 khi tiếng nổ
của đại pháo ở cổ thành Quảng Trị
đang âm âm vọng về réo gọi, thì chúng
tôi, trên những ngọn đồi trung du đầy
bóng bạch đàn đã làm nên những chuyện
tày đình, để lại những kỷ niệm
"ác liệt" không kém gì trận mạc.
Chúng tôi đóng quân trong làng, tất nhiên rồi
"quân với dân như cá với nước",
cá mà rời nước thì có mà ngáp. Nhưng có một
điều thuộc về quân lệnh là cấm
léng phéng với con gái chủ nhà. Vả lại,
chúng tôi học lái suốt ngày, về đến
nhà là mệt lử, đêm phải gác xe. Bãi xe lại
là xe tăng, tất nhiên không thể để
trong làng mà ở trên đồi. Đơn vị tôi
chọn được một địa điểm
rất hay. Số là, quả đồi bạch
đàn ấy trước đó đã có một
hàng rào kẽm gai. Hôm tìm địa điểm,
ông đại đội phó bảo thằng Bá
Hùng đi trinh sát. Trở về, hắn thì thầm
với bọn tôi rằng bên kia hàng rào có rất
nhiều "ami xinh tươi" mặc quân phục.
"Mẹ kiếp! đóng bãi xe ở đấy
thôi chớ đi đâu nữa". Sau đó,
chúng tôi làm mặt lạnh kéo tới gặp đại
đội phó, giơ tay chào theo kiểu quân sự
và báo cáo rằng, đây là một địa
điểm đóng quân mang tính chất chiến lược,
chiến thuật, rằng có thể tiến công
phòng thủ đều tiện lợi... và... Khi
đại đội phó hỏi: Bên kia hàng rào là
đơn vị nào thì thằng Hùng báo cáo mập
mờ rằng: đó là đơn vị chiến
thuật, kỷ luật nghiêm , có thể là hậu
phương vững chắc cho đơn vị ta.
Chao ôi! Chúng tôi đâu có biết rằng bên hàng
rào kẽm gai kia là cả một thế giới
riêng, một đơn vị cơ yếu đặc
nhiệm của Bộ Quốc phòng có vai trò cực
kỳ quan trọng trong cuộc chiến tranh của
cả nước và những bóng "ami mặc
quân phục" kia chính là những chiến sĩ
báo vụ cơ yếu được bảo vệ
hết sức nghiêm ngặt.
Có lẽ đây là một trong ít lần ông
đại đội phó được cái đám
"giặc đầu bò" là chúng tôi đối
xử nghiêm túc và kính cẩn, nên ông có phần cảm
động mà chấp nhận đóng bãi xe ngay
trên nửa quả đồi tai ương ấy.
Và với quyết định đó, ban chỉ huy
đại đội bắt đầu phải chịu
đựng và trả giá cho những trò ba trợ của
tụi tôi. Có lẽ cái lam sơn chướng khí
của đất tổ Hùng Vương được
tích lũy từ thời khai thiên lập địa
đến năm 1972 đã xì hơi nhập vào
chúng tôi mà sinh ra các chuyện nghịch ngợm
ấy chăng.
Ban ngày chúng tôi phải đi tập lái xe. Lái
đủ các khoa mục: Hạn chế thẳng, hạn
chế chữ Z, vách hụt, vách đứng, sống
trâu, cầu vệt... Đã qua các thời kỳ tậm
tọe: sang số, tăng ga, xuống số, vù
ga... với cái bảng cầu chì dài dằng dặc:
đuôi (cầu chì đèn đuôi), hồng (hồng
ngoại), hông, còi, quạt-nhờn-đồng khởi-mù
pha. Tóm lại, chúng tôi có vẻ là những chú
chim ra ràng đang tập bay. Chiều chiều chúng
tôi xin trợ giáo được tự lái xe ra
bãi, cố ý đỗ sát hàng rào, vù ga thật mạnh,
ngõ hầu gây được sự chú ý của
"phía bên kia". Mất hơn mười ngày
như thế mà chẳng nước non gì cả.
Những bóng áo binh phục mầu nhạt bó sát những
eo lưng tròn lẳn vẫn chỉ thấp thoáng
sau bóng cây bạch đàn đằng xa. Một lần
chúng tôi đến sát hàng rào đánh bạo gọi
với vào:
- Này! Các đồng chí ơi!
... Và mừng rơn khi thấy có người
đi tới. Nhưng té ra là hai gã đàn ông có
súng, mặt lạnh như tiền, hỏi:
- Các đồng chí cần gì?
- à, ờ... chúng tôi xin một tý xà phòng, à quên
xin ngụm nước uống, khát quá.
- ở đây không có xà phòng và cũng chẳng
có nước uống đâu nhé.
Nói xong, hai gã đàn ông có súng quay đi. Chà thật
là "phí rượu" mấy cha hách gớm!
Nói thật chứ bọn tôi đâu có sợ mấy
khẩu AK báng xếp nơi tay bọn hắn. Gì chứ
súng thì bọn tôi cũng có, có điều là hơi
to một chút. Khẩu pháo 100ly trên xe đó, tôi mà
khạc một cái thì... Nhưng chúng tôi cũng thừa
biết là không thể tấn công bằng cách
ấy được, phải tìm mẹo khác, nhất
định phải "móc nối" cho bằng
được một số "ami" mới
nghe.
May thay, thằng Tuấn lại có một cái
đàn ghi ta. Bọn tôi tất thảy đều
qua vài năm ở trường đại học nên
chơi đàn cũng khơ khớ, hát cũng
đúng thanh nhạc, riêng tôi lại có cả cái
giọng "ôpêrêt" tàm tạm. Vậy là, trăng
trung tuần vằng vặc, đồi trung du lộng
gió, lá bạch đàn xao xác rụng, chúng tôi ôm
đàn ngồi trên tháp pháo xe tăng thả theo làn
gió nam mát rượi qua bên kia hàng rào bài tình ca
Nga rất "ác chiến". "Giờ này anh về
đâu hỡi người lính cũ binh đoàn...
Nếu giờ này bạn hiền còn thiếu một
gia đình... Có nhiều cô đẹp như ca khúc
ban chiều". Mất ba đêm như thế mà
không thấy động tĩnh, chúng tôi nản
quá. Ban đêm không nước non gì nên ban ngày
chúng tôi vặc nhau luôn luôn. Mùa trăng đang qua,
khóa huấn luyện sắp kết thúc, chúng tôi biết
ngày lên đường vào Nam chiến đấu
không còn xa nữa. Vậy mà! Ban đầu chúng
tôi chỉ chơi đàn theo kiểu "gọi
tình". Ai ngờ đến đêm thứ năm,
tiếng đàn thằng Hùng nghe khác hẳn, cả
cái giọng "ôpêrêt" của tôi cũng rà
đi lúc nào không biết.
Từ trên đỉnh núi Chi-ta xa vời, mưa
tuyết vẫn rơi tuyết đầy trời.
Chợt nghe tin đến chân tay rụng rời.
Người lính em yêu ngã ngựa rồi. Không
may gãy tay rồi còn đâu lấy tay lành vuốt
tóc em dài...
Tất cả chúng tôi gục đầu xuống,
mơ màng nghĩ đến một điều gì rất
xa, về một kỵ sĩ nào đó ngã ngựa,
về Khoa văn Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội mà tôi mới kịp gửi thân
theo học hai năm, về ngày nhập ngũ, về
chiến trường Quảng Trị đang đỏ
lửa mùa hè, đêm trăng vàng, sương buông
đồi trung du ớn lạnh. Bỗng có tiếng
vọng nghe thảng thốt.
- Hát nữa đi các anh!
Lập tức chúng tôi ngẩng đầu lên, thằng
Hùng buông rơi cây đàn xuống cỏ: Sát hàng
rào bên kia tập hợp đủ một tiểu
đội chiến sĩ gái thấp thoáng dưới
trăng, huyền ảo như những nàng tiên vừa
bay từ trên trời xuống...
... Các bạn cựu chiến binh thân mến! Tôi
nói điều này chỉ các bạn mới hiểu
và tin chúng tôi, rằng: Ngay trong đêm đó, cái
đêm huyền thoại, khi tiếng đàn nức
nở lặng đi và những cái bóng eo lưng mặc
quân phục mầu cỏ úa nhạt hiện ra bên
hàng rào. Chúng tôi đã đến, đã nói chuyện
và dường như đã quen nhau từ lâu lắm
rồi, đã tìm nhau lâu lắm rồi, dường
như chúng tôi đã yêu nhau. Hai đội binh
đều áp sát hàng rào kẽm gai, từng đôi
một xoắn xuýt tâm sự - như chúng ta thường
nói là không biết mệt mỏi. Tôi mạnh dạn
cầm tay "người chiến sĩ gái"
dành cho tôi. Mãi đến cuối buổi, tôi mới
biết được tên thật của nàng là Nụ.
Lạ lùng thay, Nụ không có ý định rụt
tay lại. Cổ tay Nụ tròn và mát. Tôi nhìn rất
lâu vào cái cổ tay ấy rồi ngước lên
thấy Nụ cười, một nét cười hiền
lành và say đắm, mà sau này suốt hai mươi
năm qua tôi không hề tìm thấy bất cứ
ở đâu dưới gầm trời này. Bên cạnh
tôi lúc đó cũng đầy tiếng thì thào khe
khẽ và cảm động của bọn thằng
Bá Hùng, Hoàng Sâm, Quốc Tuấn. Trong ánh trăng vằng
vặc diễn ra một cảnh tượng hết
sức kỳ dị trông như một vũ điệu
huyền ảo: Tám đôi trai gái cầm tay nhau qua
hàng rào kẽm gai mắt cáo mà cứ trân trân nhìn
nhau, không thể nhúc nhích được vì các
vòng kẽm gai sắc nhọn như những chiếc
vòng khóa chặt các đôi tay.
Đêm ấy, khuya lắm chúng tôi mới rời
nhau ra, không phải vì buồn ngủ hay mệt mỏi
mà vì trời đang rạng dần. Cũng phải
mười năm sau tôi mới hiểu vì sao các
cô gái cơ yếu đó có thể chấp nhận
tình cảm nhanh chóng và nồng nàn đến thế.
Các bạn có tin được không, cái cảnh
cầm tay nhau như chuẩn bị khiêu vũ
ấy tái diễn đến bảy đêm. Bọn
chúng tôi, ban đầu do nghịch ngợm, đến
thời gian sau nghe các cô kể chuyện mới thấy
thương thương và mủi lòng thực sự.
Chúng tôi hôn nhau qua hàng rào. Nụ của tôi nước
mắt chứa chan. Tôi loay hoay xoay xở mãi mà
không có cách gì ôm được nàng. Nụ cho biết,
các cô phải làm việc dưới một chế
độ kỷ luật rất nghiêm, vì như tôi
nói từ đầu, đấy là một công việc
cực kỳ quan trọng và tuyệt mật. Mỗi
tháng các cô mới được ra khỏi hàng
rào một lần và phải đi cùng nhau, hạn
chế tiếp xúc với người ngoài, phải
về trước giờ điểm danh buổi tối.
Thường thì khi xuất ngũ hay phục viên
các cô được giải quyết đồng
loạt và ngay sau đó Bộ Quốc phòng thay mã
khóa cơ yếu để đề phòng bị lộ.
Đấy, tình yêu của bọn chúng tôi nằm
trong tình thế nghiệt ngã như vậy đấy.
Tôi thì không tin rằng sẽ còn đóng quân tại
đó cho đến cái buổi mà Nụ của
tôi được ra ngoài hàng rào. Tình hình chiến
trường đang nóng như cơn sốt. ở
Quảng Trị giặc đã phản công tái chiếm
thành cổ. Bộ binh chiến đấu thiếu
hỏa lực đột kích nên rất gian nan.
Đơn vị hối hả hoàn thành các khoa mục
cuối cùng. Đến những ngày cuối cùng
tôi cuống lên. Tôi khao khát được một
lần, một lần thôi ôm Nụ vào lòng, quàng
tay vòng qua cái eo lưng mặc quân phục nổi
lên đường cong đẹp như một thiếu
nữ trong hội họa Phục Hưng. Tôi giống
như chú nghé con bị nhốt trong chuồng vươn
cái cổ khát khao với tới đám cỏ mới
nhú lên sau những đêm mưa.
Một lần thôi rồi chết cũng
được. Tôi quyết định đột
nhập doanh trại đơn vị cơ yếu
đặc nhiệm. Nghe tin này thằng Hoàng Sâm và
Bá Hùng xúm lại can, các hắn vẫn chưa quên
được bộ mặt băng giá của hai
gã đàn ông khoác súng dạo nọ. Nhưng chí
tôi đã quyết, không ai có thể ngăn cản
được. Chiều hôm ấy, tôi đánh xe về
đậu sát hàng rào húc đổ một cây bạch
đàn. Mặc, tôi không sợ, có húc đổ một
cây chứ mười cây tôi cũng húc. Tôi hồi
hộp chờ trời tối: Thằng Sâm và thằng
Hùng hứa giúp tôi. Phần tôi, tôi tranh thủ xác
định lại hướng tiến đến cái
"ki ốt" mà đêm đêm Nụ vẫn trực
ca từ 20 đến 21 giờ.
Màn đêm buông xuống, lạy trời, đêm
hạ tuần trời tối đen. Tôi đang
đứng bên hàng rào dõi mắt về phía sâu
trong doanh trại đến chỗ có mấy ánh
đèn thắp ắc quy rồi. Trong đêm tối,
cái tháp pháo quay chầm chậm nửa vòng trên xe rồi
lặng lẽ gác cái nòng 100 ly đen trũi, lạnh
buốt ngang qua hàng rào. Tôi lẩy bẩy ôm cái
ống thép dài ngoằng ấy bò lên, vượt
qua trên đầu hàng rào, rồi thả tay rơi
xuống. Mọi việc đang tiến triển tốt
đẹp. Tôi đang ở phía trong bờ rào, thuộc
vùng cấm địa. Thằng Sâm đang quay cái
nòng pháo trở ra. Chỉ ba phút nữa Nụ sẽ
ngả vào vòng tay tôi, mềm mại như một
thiên thần bé nhỏ. Thú thực trong giờ phút
nghiêm trọng nhất cuộc đời ấy, tôi
có thoáng nhớ đến gia đình, đến kỷ
luật quân đội, đến tòa án binh, nhưng
tất cả đều nhanh chóng mịt mờ
đi: Chỉ ba phút nữa thôi, tôi sẽ ôm đầy
vòng tay một cơ thể ấm nóng và hôn nàng
mà không sợ bị thép gai cào cấu.
... Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Đôi môi tươi đạn xé
Chưa một lần biết hôn
Tiến lên, hỡi hiệp sĩ Tankistơ! Tôi
thì thầm hô khẩu hiệu. Sau lưng tôi, cả
hai thằng Sâm và Hùng đều áp người vào
hàng rào giục: "Nhanh lên". Và tôi tiến
lên đến gần chỗ có ánh đèn hắt
ra. Trong đêm cái ki ốt trông rất kỳ lạ,
ma quái. Tôi ghé mắt nhìn qua kẽ hở và chợt
bàng hoàng: Nụ đang ngồi nhận mật mã
giữa một vầng sáng trắng ánh điện
và vô số những máy móc rất lạ mắt.
Em ngồi đó như thiên thần mất ngủ!
Tôi thì thầm nhẩm một câu thơ không biết
của ai hay là tôi mới nghĩ ra, rồi thu hết
can đảm gõ vào cánh cửa. Mọi việc diễn
ra sau đó tôi không đảm bảo là nhớ hết,
nhưng cái cảm giác thì bây giờ đã hai mươi
năm trôi qua tôi vẫn còn nhớ, và mỗi lần
nhớ đến tôi lại ớn lạnh. Đèn
vụt tắt cánh cửa sắt bật mở nhanh
và mạnh hơn tôi tưởng. Nụ xuất hiện
trong bóng tối với bộ mặt đen thui cùng
với khẩu súng nhỏ chĩa thẳng vào mặt
tôi:
- Ai? đứng im, giọng hô sắc nhọn như
một mũi kim.
Tôi cứng người hoảng hồn:
- A... Anh đây... Tư... ờng.
- Trời ơi, anh Tường. Chết mất thôi,
anh chạy nhanh đi không người ta bắn chết
bây giờ!
Tôi lắp bắp:
- Nụ, anh yêu em, cho anh...
- Biết rồi, anh chạy nhanh đi, anh vào
đây bằng lối nào, mẹ ơi, cứu anh
ấy với!
Tôi hoảng cả hồn, sợ gần chết,
không biết trời đất là gì nữa. Nụ
đút súng vào lưng quân phục dùng cả hai tay
xô mạnh vào vai tôi, nhưng đã muộn:
"Báo động". Phía đằng sau vang lên
những tiếng thét giật giọng, tiếng AK
lên đạn, tiếng con chó béc giê gầm lên.
Tôi chạy cuống cả chân tay. Đây rồi
hàng rào kẽm gai, cái nòng pháo đang quay rất chậm.
Đã nghe tiếng bước chân rào rào, ánh
điện đèn pin loáng thoáng. Tôi cuống cà kê
định lao đầu vào hàng rào nhưng lập
tức dừng ngay lại, hàng rào mắt cáo rất
dày và là một thứ kẽm gai rất sắc.
May thay, cái nòng pháo đã hạ xuống, tôi bật
người đu lên nhưng lại buột tay.
Đêm, sương xuống ướt đẫm
khối thép, cái chỗ tôi đu tay vào lại dính
một tý mỡ trơn nhẫy. Tôi nhảy hai lần
và thở phào co người lên.
- Đứng lại, giơ tay lên, một ánh
đèn pin chiếu thẳng vào lưng tôi, thốt
nhiên cái "cần trục" ngưng lại. Tôi
thét:
- Quay nhanh lên Sâm.
- Pằng!
Tôi lạng người, mắt hoa đom đóm,
trong tia chớp hiểm nghèo vừa vượt qua,
tôi còn kịp nghĩ rằng mình đã chết và
buông tay cho người rơi xuống ngay sát hàng
rào.
* *
Nếu không có lệnh cấp tốc lên
đường chiến đấu ngay sáng hôm sau,
chắc chắn tôi đã phải ra tòa án quân sự
và lãnh vài năm tù giam. Chỉ huy đã bảo vệ
tôi và ký vào tờ cam kết với đơn vị
bạn rằng, đó chỉ là trò trai gái thông thường.
Mặc dầu vậy, trong vòng hai tiếng đồng
hồ, quân báo đã lục tung cái sơ yếu lý
lịch ba đời ăn củ chuối của
gia đình tôi rồi mới tạm yên tâm cho tôi
lái xe tăng vào Nam. Giây phút cuối cùng khi chuẩn
bị lên đường, không cầm lòng
được chúng tôi đã đến bám vào
hàng rào gọi toáng lên, và các em đã đến.
Cơn choáng "vượt rào" còn chưa qua,
nghe chúng tôi thông báo lệnh đi chiến trường,
các em bàng hoàng. Nụ, nước mắt đầm
đìa cầm tay tôi khóc mãi điệp khúc:
- Tha lỗi cho em, tha lỗi cho em...
Giây phút ấy tôi có nhìn thấy những chiến
sĩ cảnh vệ ban đầu. Họ ý tứ
đứng xa nhìn lại. Mãi sau mới đến
gần chào chúng tôi và nói lời thông cảm với
vẻ mặt hết sức thân thiện. Thế
là chúng tôi đi, khi lái xe lên tàu ở ga Vĩnh Yên
chúng tôi mới nhớ ra rằng, chưa hề biết
quê hương các em ở đâu và hòm thư của
đơn vị các em. Cả một lời hẹn
ngày về cũng không thằng nào kịp nói - thật
là "ngu lâu" cả một bọn!
... Rồi, chiến trường đẫm máu cuốn
chúng tôi đi...
* *
Hỡi các em Nụ, Quang, Lài, Bích, Lâm... hiện
giờ các em ở đâu? Đang là một phụ
nữ nông dân lo toan miếng cơm, manh áo cho chồng
con, vui vầy với khói lam chiều, giàn mướp,
mái gianh, đang là một chủ sạp hàng chợ
Châu Long, Đồng Xuân nào đó hay đã trở
thành mệnh phụ, phu nhân một bộ trưởng,
thứ trưởng, cục, vụ, viện nào
đó? Dù các em đang là ai, phục vụ đức
ông chồng nào cũng xin các em một phút - một
phút thôi như buổi chia tay năm nào lên
đường vào Nam đánh giặc - nhớ
đến chúng tôi, những chú lính lái xe tăng
nghịch ngợm nhất dưới gầm trời
này. Những người lính thuộc trung đoàn
huấn luyện 207 đã cùng các em làm nên những
chuyện động trời mùa hè năm 1972 trên
đồi bạch đàn Vĩnh Phú. Chúng tôi, hai mươi
năm qua như Hoa Xuân Toàn, Phùng Anh Dũng, Nguyễn
Tự Chính đã ngã xuống ở chiến trường
như những hiệp sĩ chết vì quê hương
và người đẹp. Có người bị
thương cháy hết mặt mày đã lui về
làm vườn, vào hội chiến binh vùng sơn
cước. May thay chưa có ai chết vì trụy lạc
xa hoa. Chúng tôi vẫn là những Hoàng Sâm, Quốc
Tuấn, Mạnh Tường, Bá Hùng tuyệt diệu
của các em. Tuy đuôi mắt có nhiều nếp
nhăn, râu ria có mọc ra rậm rạp, nhưng
trái tim chúng tôi vẫn trẻ trung, vẫn nguyên vẹn
đến hoang sơ những kỷ niệm ngọt
ngào với các em, cả mùa hè đầy lo âu khi
là Tankistơ trên đồi Vĩnh Phú.
Vĩnh biệt những người bạn gái tốt
nhất trên đời, hẹn gặp lại sau hai
mươi năm nữa, như thể hai
mươi năm qua chúng ta đã không thể gặp
nhau./.
Nguyễn Thế Tường