Năm 1952 ở chiến khu Ba Lòng. Có tờ thông
báo của Chỉ huy trưởng mặt trận Trần
Quý Hai gửi các cơ quan: "Cơ quan nghỉ một
ngày. áo quần tươm tất. Chụp ảnh.
Ký tên: Hai". Đã là mùa áp Tết. Ai cũng hí
hửng sẽ thấy chân dung mình trong tuổi mới.
Từ cơ quan Tham mưu qua Chính trị mới
đến Hậu cần. Thợ ảnh là một
cán bộ tuyên huấn. Sau trận Thanh Lam Bồ,
trung đoàn 101 nộp chiến lợi phẩm lên
trên. Có chiếc máy ảnh "Detlkông vuông" (cỡ
phim 6x6). Kính ngắm từ trên xuống. Anh Nguyễn
Hữu Cự được cử ra Nghệ An học
chụp, học tráng, học in ảnh. Học xong
được tiếp nhận một gùi đồ
nghề, phim, thuốc hiện, thuốc hãm, phim dự
trữ. Xin một dân công và thầy trò trở về
mặt trận.Mỗi bộ phận trong cơ quan
chỉ được một kiểu ảnh. Cuộc
sắp xếp đội hình khó nhọc như xếp
dàn tốp ca, hợp xướng trên sân khấu.
Có một ngoại lệ. Ông chủ nhiệm chính
trị Nghiêm Kình (sau này Nguyễn Minh Châu chọn
ông làm nguyên mẫu để sáng tạo nhân vật
chính uỷ trong tiểu thuyết "Dấu chân người
lính") có mặt trong các đội hình của cơ
quan. Ai cũng muốn đứng gần ông. Hoá
thành khó cho việc sắp xếp.
Tôi không nhớ lúc anh Nguyễn Hữu Cự bấm
máy thì mình có cười không. Hoá thắc thỏm
mất mấy ngày chờ có ảnh. Công việc
chuẩn bị Tết rộn ràng. Nhưng ai
cũng nghé mắt sang nhà mụ Lý ở bờ
sông. Chân dung cả cơ quan Mặt trận đang
được "nhốt" vào máy, vào phim, vào
thuốc hiện, thuốc hãm của anh Cự, vào
cái buồng tối được che bằng
chăn trấn thủ.
Giao thừa năm ấy, chúng tôi đón xuân
ở phía tả ngạn sông Ba Lòng. Một ga-men bắp
hầm với đậu xanh. Gác lên phần lương
thực ấy là một "khúc thực phẩm".
Cá sông Ba Lòng. Đáng nhớ hơn là cả cơ
quan Mặt trận được cười thay pháo
Tết. Người có công châm ngòi là "phóng
viên nhiếp ảnh mặt trận" Nguyễn Hữu
Cự. Cái loại máy ảnh cổ-lỗ-sĩ này
phải bấm xuống. Do yếu lĩnh thấp nên
anh Cự hơi nhấn. Nhấn mạnh quá nên máy
ăn xuống. Và, 54 kiểu ảnh là cuộc biểu
dương chân cẳng toàn mặt trận. Từ
chỉ huy trưởng mặt trận Quý Hai đến
tôi. Tấm ảnh khá nhất là từ đầu
gối xuống. Phim đen trắng nên đôi
ống quần và dép cao su giống nhau. May là đoàn
văn công của anh Đình Quang có một nữ
diễn viên nên không ai nhận nhầm đôi chân
chị Minh Tịnh. Đâu đâu cũng chuyền
tay tấm ảnh mà nhận, mà cãi "chân mi, chân
tau". Cười rung sạp, cười thót ruột.
Cười từ năm cũ vắt sang năm mới.
Nhà nhiếp ảnh "trốn" vào cơn sốt
giả đò. Anh Cự vùi chăn ngủ suốt một
ngày đầu năm.
Xin thế kỷ sau đừng cười. Chúng
tôi ra mặt trận với chức danh văn hóa
gùi trên lưng nhưng ngô nghê như "chúa thổi
kèn".
Ngày ngày, chúng tôi tránh con mắt cú vọ của
máy bay Hen-Cát, cổ ngỗng bằng cách lội ngược
suối vào lán trong rừng tập kịch. Tắt
mặt trời, quay ra bờ sông. Ăn bắp hầm
và gối vào gió sông Ba Lòng mà ngủ. Anh Đình
Quang dàn dựng cho tôi, Minh Tịnh, Xuân Đàm vào
vở kịch "Con heo". Tôi không ngờ vở
kịch giản dị ấy sau đó là lời
chào tạ ơn dân Quảng Trị, đồng bào
các dân tộc thiểu số miền Tây Quảng
Trị để các trung đoàn 95, 101 và 18 ra Hà Tĩnh
thành lập sư đoàn.
Sau này Nhà nước xét những gì để
phong chức tước, danh hiệu cho anh Đình
Quang, Xuân Đàm tôi không rõ. Nhưng dấu ấn
những đêm lửa trại dọc sông Ba Lòng thật
đậm nét. Chúng tôi diễn vở kịch
"Con heo". Bộ đội và dân vừa xem kịch
vừa ăn bắp nướng không bao giờ
quên được. Lòng dân thơm thảo, từ
bi như lòng dạ Phật trời. Giặc pháp
"tưới" đủ loại vũ khí giết
người hiện đại nhất dọc con sông
và bãi bồi Ba Lòng. Cuộc hù doạ thép lửa
ấy thua cái giọng ngâm thơ nửa Nam nửa
Bắc của Đình Quang vào tai dân, tai lính. Cả
vùng Ba Lòng thuộc rồi hát lại với Đình
Quang "Đêm nay Bác không ngủ. Đêm nay Bác ngồi
đó. Vì một lẽ thường tình...".
Xin thế kỷ sau đừng cười. Phần
văn nghệ sĩ mặc áo thường dân
ở đâu đó, tôi không rõ lắm. Phần nhà
binh vẻn vẹn có ba người. Ba chàng "ngự
lâm pháo thủ" của văn nghệ chiến
tranh thời đánh Pháp ở Ba Lòng. Hai cây bút
nhúng vào mực và một cây bút đuôi thỏ
nhúng vào màu nước. Ba chàng lãng tử hát rong.
Họ ở cơ quan tuyên truyền, tuyên huấn
gì đó của mặt trận. Tôi mới mười
tám tuổi, nhìn lên "ba ngôi" mà ao ước
và kính nể. Một là anh Nguyễn Khắc Thứ
xuất thân là trưởng tàu, ăn lương
ngạch đường sắt toàn xứ Đông
Dương. Vỡ mặt trận năm 1947, chạy
ra Hà Tĩnh, nhập ngũ trung đoàn 103 rồi
tình nguyện trở lại quê nhà. Hai là Vĩnh Tôn,
cháu - chắt - chút - chít mấy chục đời
của Đức vua Gia Long. Cũng chạy giặc
ra Thanh Hoá rồi về lại xứ mình. Cách Huế
14km mà không thèm "dinh tê". ở Dương Hoà,
Cầu Nhi rồi Ba Lòng. Ăn bắp, ăn rau
để ký cho được cái tên Hải Bằng
dưới mỗi bài thơ viết về cơn
mưa ở Huế. Ba là Trần Quốc Tiến cội
rễ ở Triệu Phong, Hải Lăng gì đó.
Tôi không thông thuộc lắm xuất xứ quê hương
nhưng tôi mê những bức tranh. Tôi nể cái lần
gặp lại Trần Quốc Tiến ở Đông
Hà năm 1973. Trần Quốc Tiến chỉ
chưa nhúng cây cọ mà vẽ lên cát Cửa Việt
những bức hoành tráng. Trần Quốc Tiến
vẽ tranh phụ nữ Quảng Trị nhiều hơn
số phụ nữ của quê anh vừa giải
phóng. Đến nỗi có lần anh Lương An
với tư cách người lãnh đạo đã
nhắc khéo: "Răng mà toàn phụ nữ rứa?
Không có chi để mi vẽ nữa à!".Trần
Quốc Tiến cười:
- Thế tại sao anh không viết "Đò ông
lên xuống Ba Lòng"*mà mấy chục năm ni vẫn
cứ là "Đò em... đò em!".
Ngày ấy, Ty Văn hoá Quảng Trị ở tầng
dưới những ngôi nhà đổ nát ở
Đông Hà. Chúng tôi cười rung chăn chiếu.
Trần Quốc Tiến vẽ. Bức sơn dầu
của anh mà tôi được ngắm nhìn lâu nhất,
kỹ nhất là người phụ nữ tựa
vào cửa sổ. Người phụ nữ cầm
dưới tầm mắt một cuốn sách. Chắc
là cuốn "Trận Thanh Hương" của
Nguyễn Khắc Thứ. Anh Thứ mang theo cuộc
đời sóng gió, ẩn dật, bi thương của
mình. Anh sống với người trong tranh. Sống
với người tình trắc ẩn.
Họ là ba ông đầu rau. Tôi nghĩ vậy.
Ba ông đầu rau nặn bằng đất bãi
sông Ba Lòng. Họ là một trong những cái bếp
lửa hoang cổ góp cho Quảng Trị ngày nay một
chút ấm áp không to lớn nhưng giàu dư vị.
Hai người đã là thiên cổ. Còn một
Trần Quốc Tiến nhưng tôi bị đứt
mạch thông tin. Cả ba anh hoà mạng vào đời
tôi. Được bao ngày, bao tháng, bao năm ở
thế kỷ sau, khi nhắc đến là tôi còn
được gặp. Gặp từ chân dung, tính nết.
Gặp cả tài, cả vật và đủ kỷ
niệm vui buồn...
***
Ba chàng lãng tử này cũng là ba con chim núi can trường.
Lâu lâu, cả ba người lại rủ nhau
đi. Khi vượt sông, leo dốc sang Cùa. Khi xuôi
sông để từ bến Trấm mà xuôi nữa.
Ra khỏi nơi trú quân ở Ba Lòng, cả ba người
biến dạng. Chẳng khác gì một người
Quảng Trị ở xuôi lên. từ bộ quần
áo bà ba đen. Từ lời ăn tiếng nói. Căn
nhà tuyên truyền của mặt trận im ắng
khi vắng họ.
Và đồng bằng Gio Cam, Triệu, Hải theo
họ lên rừng. Ba người là ba kho chuyện.
Thứ viết được thành văn, thành thơ,
cả ba người hì hục viết ngược
lên đá. Ba anh chàng trần trùi trụi như thợ
đá Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng bây giờ.
Cả mặt trận có mỗi tờ báo in li-tô. Vậy
mà rồi, chuyện đồng bằng in ra thành dăm
bảy trăm bản, có tên gọi, có hình vẽ,
có nhạc điệu như những cánh chim bay
vào Thừa Thiên cho Trung đoàn 101. ở lại với
Quảng Trị cho Trung đoàn 95. Bay ra Quảng
Bình cho Trung đoàn 18. Nghe đâu còn ngự lên vai
dân công ra Liên khu Bốn, ra Việt Bắc.Nhờ
thế mà ngoài Việt Bắc được đọc
truyện Bình Trị Thiên. Có truyện viết hay
nên chọn làm giải thưởng. Nguyễn Khắc
Thứ là tác giả Quảng Trị đầu tiên
lên ngôi thứ vinh quang ở văn đàn. Chuyện
ấy sau này tôi mới biết. Điều tôi thú
vị là theo cả ba người ra mép sông Ba Lòng.
Ba người ngắm sông. Tôi ngắm họ. Tôi
muốn hoá thân thành họ thật. Ba con chim núi mỏ
vàng, cánh đen bay lượn ở cuộc đời
này. Tôi ví cả ba người là chim. Tôi sang xin Vĩnh
Tôn mấy tờ giấy. Đêm ở chiến khu,
tôi che đèn bớt sáng, mở cái nắp bút, vẽ
lên đó những dòng chữ như cái lông chim. Rồi
nguệch, ngoặc vẽ ướm đường
bay cho mình.
***
Năm 1998, tôi về Quảng Trị nhân lễ
thông cầu Hiền Lương. Tú Anh, Cao Hạnh
và bạn bè rủ lên Ba Lòng. Tôi không thu xếp
được chuyến đi vì trở về Hà Nội
là bấn bíu vào trăm việc.
Nhưng rồi như một người hối
lỗi, tôi chắp nối bao người, bao việc
của một thời chưa xa. Tôi thắp hương
ngày rằm, mồng một và khấn vái anh Nguyễn
Khắc Thứ, Vĩnh Tôn và bao người cho tôi
được kể lại. Cho tôi dắt chuyện
sang thế kỷ sau ở lúc giao thừa.
Cả vùng núi dựng và sông sâu là đất
anh hùng. Cả cây mít, cây tiêu bên Cùa, cả vạt
rau, vườn quả bên Đá Nổi là đất
anh hùng. Tôi đến có một mùa, ở một
mùa rồi biền biệt đi xa. Tôi cũng
thơm lây phẩm chất vinh quang này. Bởi sự
hình thành nên một lớp thuộc thế hệ
chúng tôi có hương vị và dinh dưỡng mùa
bắp ở Ba Lòng.
Bút ký của Phạm Ngọc Cảnh