Đêm nguyên tiêu sau Tết Mậu thân, Duy lội
qua một quãng đồng muối ven đường
để vào thị xã Bạc Liêu. Anh chuẩn bị
chờ đợt tiến công mới!
Gần đến một trạm gác ngã ba một
vườn nhãn, đầu ấp, các gia đình người
Hoa cúng Rằm khói hương bay toả một vùng
cây trái thơm lừng. Những chùm nhãn trái mùa dơi
bay về ríu rít - xào xạc trong gió xuân.
Duy vừa thay quần áo của một cậu học
sinh mới cho lúc ban chiều, bỗng nghe tiếng
mìn nổ. Lệnh báo động ồn ào, nhốn
nháo trong các phố gần ngoại vi. Xe nhà binh,
còi cảnh sát rộn ràng hốt hoảng.
Duy vội núp trong một góc vườn, nơi có
ánh đèn nhỏ xíu như tàn thuốc lá của
căn nhà ngói vừa mới xây xong. Anh biết
đây là căn nhà của một chủ vườn
giàu có. Duy chẳng dám vào cổng chính, mà rẽ
vào cánh cửa rào thép gai nhỏ bên góc vườn,
nơi có căn nhà nhỏ lụp xụp phía sau,
có lẽ đây là nhà của người coi vườn.
Đèn điện trong thị xã tắt ngấm
từ lâu. Nhưng trăng rằm vẫn sáng. Anh
không vội vào nhà. Một lúc không có động
tĩnh gì, đèn bật sáng. Tiếng xe tuần tiễu
đã im ắng. Thế là Duy đã lỡ giờ hẹn.
Anh định đến điểm hẹn 8 giờ
đêm. Nhưng đã 9 giờ, trễ hàng tiếng
đồng hồ. Sợ đến không ai đón
lỡ cả kế hoạch và có thể bị bắt.
Thế nào anh cũng phải chờ lại đêm
nay và đến ngày mai xem tình hình sẽ tìm về
cơ sở cũ.
Anh đánh bạo bước vào căn nhà lá
nghèo nàn nhưng gọn ghẽ, sạch sẽ.
Đây có lẽ là nơi ở của đầy tớ,
hoặc người làm công trông coi vườn nhãn.
Duy run lẩy bẩy thấm lạnh, khi vượt
qua cánh đồng nước mặn ướt mềm.
Trong nhà một cụ ông đẹp lão có lẽ
gần bảy mươi, râu dài, mắt sáng tinh
anh, ngạc nhiên định hỏi to. Nhưng ông cụ
nhìn thấy cách ăn mặc của người lạ
có vẻ như học trò trên tỉnh, thành ra cụ
dịu giọng:
- Đêm luôn báo động, chú đi đâu thế
này? Chú mầy có biết đang thiết quân luật
đó không?
Biết ông lão thiệt thà, chất phác, Duy thưa
thiệt:
- Thưa tía, con là giải phóng quân, đêm nay về
thị xã hoạt động, nhưng vì báo động
lỡ đường đi chưa tiện, dạ
xin tía che chở cho.
Ông cụ suy nghĩ một lúc, những nếp
nhăn trên trán gấp lại thêm. Ông cụ quả
là đang lúng túng vì quá bất ngờ, nhưng rồi
vẫn nhẹ nhàng nói:
- Cháu vào thay áo quần đi, kẻo lạnh.
- Dạ thưa tía, quần áo con đã khô rồi,
đỡ lạnh nhiều!
Ông cụ ra khép cửa lại và ngồi pha trà
uống. Thong thả ông cụ nói thiệt:
- Này cháu, cháu đi lầm nhà rồi! Ông có thằng
cháu ngoại thiếu uý quân cảnh trên trạm
gác gần ngã tư Đinh Tiên Hoàng đó! Có thể
đêm đêm nó về đây, cha nó làm kho bạc
tỉnh về hưu, hiện ở cái nhà ngói mới
xây trong vườn này đó.
Duy nghe đến đấy người lạnh
toát, anh định thoát ra sau vườn nhãn, băng
qua đồng để ra đi. Nhưng ông già
đã nhanh ý ngăn lại:
- Cháu đã vào nhà, thôi cứ ở lại đêm
nay. Ta cũng có thằng út đi tập kết ngoài
Bắc. Tuổi già, lên ở với con gái. Chúng
nó bảo vào ở trong phố, nhưng ta ở
đây trông coi vườn nhãn. Thôi, không sao đâu,
có gì ta liệu. Còn đĩa xôi vừa cúng rằm,
để ta đi lấy cho cháu ăn đỡ.
- ấy, dạ thưa tía, làm phiền và luỵ
đến tía, con chẳng dám, con xin đi đây!-
Không đâu, ta ưng cháu ở đây mươi bữa,
nửa tháng cũng được, huống chi một
đêm. Có gì ta bảo cháu là con người bạn
ở Giá Rai lên giúp làm cỏ lúa.
Duy cảm thấy yên tâm. Coi bộ ông già phúc hậu
và là người quyết đoán, cho nên anh đi
vào phòng trong, định ngủ một đêm cho lại
sức, vì đã ba đêm phải thức suốt
mà chưa vào được cơ sở. Duy vội
giấu khẩu súng ngắn dưới gối và
đưa mắt nhìn ra cửa sổ. ánh trăng
nhặt thưa trên những tàn nhãn như những
chiếc dù lớn lay động đầu thềm.
Anh đưa mắt đảo quanh, anh lại nhìn
lên vách sau cửa bếp. Một bộ quần áo
quân cảnh đã hơi cũ treo trên móc áo.Anh chợt
nghĩ ra: hay ta nhờ ông cụ để lại
cho bộ quân phục cũ này để dễ bề
đi lại coi như lính giải ngũ. Anh nói vọng
ra ngoài.
- Dạ thưa tía, bộ áo quần này của
ai vậy?
- Thằng cháu ngoại nó mặc cũ, nó cho ta
đấy!
- Thưa, nó độ bao nhiêu tiền?
- Tiền nong gì, cũ rồi, may mới chưa
đến vài ngàn. Cũng may đêm ấy thằng
cháu ngoại quân cảnh không về. Nhưng có tiếng
gõ vội vàng. Thì ra Phượng, cô cháu gái hàng
xóm, đến xin ít gừng về cho má nó đau
bụng. Cô gái xét nét dò la.
- Ngoại ơi, có ai vừa vào nhà phải
không?
Ông cụ đánh trống lảng:
- Ai đâu, thằng Ba ở Giá Rai lên giúp ông
làm cỏ lúa ấy mà!
- Cháu biết ông Năm rồi. Nó nói nhỏ bên
tai ông - Ông Năm dấu Việt Cộng - rồi
cười hì hì...
- ấy, tầm phào. cha mày, vu oan giá hoạ cho
ông à!Từ nãy giờ, Duy định ngủ cho lại
sức, nhưng qua cuộc đối thoại của
hai ông cháu, Duy cảm thấy lo lo. Anh dòm ra khe cửa,
Phượng - cô gái mà ông lão gọi tên - chưa
đến 20 tuổi. áo bà ba đen, mặt tròn
sáng bừng như trăng rằm nguyên tiêu. Duy chợt
nghĩ đến bé Loan, em gái nhỏ của mình năm
nay cũng mười chín, đôi mươi, mà
đã thoát ly làm xã đội phó du kích rồi! Thế
rồi để thanh minh cho lời nói của mình,
ông cụ gọi Duy ra. Cô gái tinh nghịch mắc cỡ,
thẹn thùng đứng nép vào góc tủ không nói
gì. Ông cụ thấy đôi trai gái liếc mắt
nhìn nhau mỉm cười. Ông lại đùa vui:-
Thôi, cháu Phượng về đi. Khi nào giải
phóng Bạc Liêu, ông cho mày thằng "Việt cộng"
mà dắt về.
Cô gái bẽn lẽn cầm vội củ gừng
chạy biến dưới ánh trăng trong vườn
nhãn, tiếng cười vui trong trẻo vọng lại
sau nhà.
Rồi Duy chợp mắt được vài giờ.
Tỉnh dậy thấy ánh trăng lồng lộng
nhặt thưa dọi bóng xuống hàng nhãn cổ
thụ đầu hè. Lòng Duy bỗng cảm thấy
thư thái, tâm hồn anh chiến sĩ thơ mộng
lại trỗi dậy. Anh khẽ ngâm bài thơ của
Bác Hồ mà thầy giáo Mai đã giảng cho cả
lớp Duy nghe vào năm 1963 khi anh còn học ở Bến
Tre vùng giải phóng.
Duy càng nghĩ càng thương cho Bác, cả thời
trai trẻ lặn lội khắp bốn biển, năm
châu lo cho dân, cho nước. Trong hoàn cảnh nào,
Bác cũng lạc quan tin tưởng ở ngày mai.
Giữa rừng già Pác Bó gian nan, "sớm ra bờ
suối, tối vào hang" mà Bác vẫn ung dung
lãnh đạo đấu tranh giành quyền sống
cho dân tộc.
Cho nên cái gian khổ của Duy có thấm vào
đâu, nghĩ vậy mà Duy phấn chấn và thêm
sức mạnh.
Sáng dậy, Duy ra chào ông cụ để lên
đường và để lên bàn số tiền
2000 đồng của đơn vị cấp
ăn đường. Ông cụ thân tình bảo:
- Tụi bây đi làm nhiệm vụ, ta không dám
giữ, nhưng còn tiền nong trên bàn đó là
cái gì?
- Con nhờ tía mua bộ đồ khác, con xin bộ
áo quần này đi đường phòng thân để
lọt qua các trạm gác.
- Thôi mặc vào, ta cho cháu đấy! Bao giờ
xong nhiệm vụ về đây lão tổ chức
cưới vợ cho. Vài nghìn chứ trăm nghìn
ta cũng không lấy. Thằng cháu ngoại ta, ta khắc
có cách nói, với nó cũng thương mẹ,
thương ông không dám làm điều thất
đức đâu! Để rồi hôm nào nó về
ông liệu bảo nó quay súng về với chánh nghĩa.
Duy chào ông lão ra đi, căn nhà nhỏ ở
góc vườn nhãn đã gieo vào anh một hình
ảnh tuyệt đẹp của một tình cảm
lớn lao. Anh vác cuốc vượt đồng
đi một quãng xa mà vẫn còn ngoái cổ lại.
Những cành nhãn chìa ra như những bàn tay vẫy
gọi, và hương nhãn thơm lừng vẫn
theo gió xuân tiễn chân anh bộ đội giải
phóng./.
Đoàn Minh Tuấn