Tôi là kẻ quét rác, xén cỏ trong công viên. Cái
nghề ít ai để ý, chỉ có tự tôi hay
để ý mình. Người ta gọi đó là mặc
cảm, chẳng biết có đúng không.
Nơi tôi làm, đã thành nếp, sáng sớm các
cụ vô tập thể dục. Khi các cụ về
thì khách thập phương tới. Trưa, họ
kéo nhau đi ăn và chiều, lại các cụ và
các cháu nhỏ. Mãi tới tối thanh niên mới
vào. Cái chu kỳ chỉ bị phá vỡ vào dịp
lễ Tết hoặc chủ nhật. Thi thoảng cũng
có ngoại lệ, ấy là vào giờ nghỉ trưa,
các cặp tình nhân tới đây hú hí vài giờ,
rồi lặng lẽ rút. Đôi khi có một bố
già xấu tính, kiếm đâu được cô bồ
nhí, đú đởn trong lùm cây, hoặc có gã
choai choai ôm eo mụ nạ dòng mập ú. Những
ngoại lệ ấy tôi nhổ nước miếng,
bỏ qua. Nhưng có một trường hợp khiến
tôi day dứt mãi, đó là bà lão, nhìn vẻ ngoài
chẳng có gì đặc biệt. Bà xách cái giỏ
nhựa, ngày ngày tới ngồi trên ghế đá
lặng lẽ têm trầu với cái vẻ lơ
đễnh của người vô cảm, không ra buồn,
cũng chẳng ra nhàn hạ. Dáng bà thanh mảnh,
nhưng không phải cái thanh mảnh của người
thành phố. Nghĩa là hơi thô và cứng. Cái
cách bà ngồi đó, không ra người giàu, cũng
chẳng thể nói bà nghèo. Đôi lúc bà cũng
đi dạo, nhưng những bước chân tự
chúng đưa bà đi đâu đó chứ quyết
không phải bà chủ định tới cái đích
nào. Rồi bà ngồi thẫn nhìn vào khoảng
không. Tôi đã từng mon men tới gần quét dọn,
hy vọng được bà bắt chuyện. Nhưng
bà lảng sang chỗ khác ngay.
Cái ghế đá ấy, cả năm nay, dường
như chỉ dành riêng cho bà. Khi bà về, không còn
dấu vết gì, kể cả bã trầu.
Bẵng đi hàng tháng không thấy bà tới,
lòng tôi bồn chồn lo ngại. Chỉ sợ bà
đau ốm thì khổ lắm.
Nhưng bà lại xuất hiện. Sự xuất
hiện của bà làm tôi mừng rỡ. Mặc dù
nom bà có vẻ gầy hơn, xa vắng hơn. Bà vẫn
mặc bộ đồ lụa thẫm giản dị
với búi tóc bạc, khoác hờ chiếc chăn
nhung mỏng màu đen và vẫn xách giỏ nhựa,
âm thầm như cái bóng.
Một lần. Hai lần... Bà đến rồi
đi, tựa hồ có sự phân định nhịp
nhàng giống như công việc đơn điệu
của tôi, tháng tháng lãnh lương, ngày ngày cặm
cụi, riết rồi thành quen, thành ra yên phận.
Nói là nói thế, những lúc đẩy cái máy
xén cỏ rù rì, tôi cũng hay rù rì nghĩ ngợi,
rằng chẳng biết thế nào nhỉ? Con người
ta có số phận thật. Bà lão ấy ngày ngày
ra công viên, chơi một mình, về một mình,
chắc hẳn đời sống thanh nhàn lắm?
Mà biết đâu chẳng phải thanh nhàn!? Tôi từ
tấm bé lận đận, ba má mất sớm, học
hành bỏ dở, chỉ biết lo kiếm sống,
xin được việc làm ở đây, rồi
lấy chồng, sinh con, được cái chồng
hiền, con ngoan, thế là mãn nguyện lắm. Có
lẽ vì thế tôi ít ước mơ, ít nghĩ
ngợi. Hễ thấy ai nghĩ ngợi là tôi to,
tôi sợ, mặc dù chẳng biết lo cái gì và sợ
cái gì. Sự hiện diện của bà lão khiến
tôi bối rối. Thương chẳng phải
thương. Hình như tôi bị ám ảnh. Sáng ra
làm việc, đã thấy bà lão ngồi đó nhai
trầu. Tôi thầm theo dõi bà. Bà nhai trầu cho có
cái để nhai, rồi lẩn thẩn lục lọi
trong giỏ, sau đó ngồi im phắc. Trưa, bà
lủi tủi xách giỏ về. Chiều bà lại
tới. Sự lặp đi lặp lại ấy dai
dẳng đến nỗi, tôi không chịu nổi.
Một hôm tôi quyết định theo bà, khi cơn
dông chiều ập xuống. Bà lập cập xách
giỏ, lập cập bước, lập cập cúi
chào ông gác cổng rồi men theo lề đường,
tới góc phố có ngôi biệt thự, bà dừng
bước, mở khoá, lách vô. Tôi chưng hửng
quay lại, chợt thấy có tiếng ôtô con, kiếng
màu, cũng rẽ vào ngôi biệt thự. Tôi cảm
thấy vô duyên cho nỗi day dứt bấy nay của
mình. Ngôi biệt thự ấy ngày nào tôi chả
đi qua, bốn bề kín cổng cao tường,
hoa tigôn nở rộ, um tùm. Các cửa sổ trên tầng
lầu đóng im ỉm, như thể nó đã
đóng từ thời xa lắm rồi. Rõ ràng
đây không phải là nhà của dân thường.
Bà lão cũng không phải là dân thường! Nhà
dân thường chẳng ai chịu đóng kín thời
kinh tế mặt tiền.
Thế nhưng, từ hôm phát hiện ra bí mật
ấy, không hiểu vì sao chẳng thấy bà lão ra
công viên nữa. Ngôi biệt thự vẫn đóng
kín, chiều chiều chiếc xe con vẫn lọt
vô. Có tới 2 tháng vẫn vắng bóng bà. Lòng tôi
se buồn. Bỗng một buổi sáng, hai ngả
đường giáp ngôi biệt thự xe con đậu
kín, có cả xe ca và xe tải, chiếc nào cũng
ngờm ngợp vòng hoa. Từng đoàn người
trang trọng nối đuôi vào viếng. Tấm
hình bà lão dán trên góc bảng cáo phó, trước
cổng ngôi biệt thự, báo tôi biết bà không
còn nữa. Tự dưng tôi cảm thấy bơ
vơ. Ông già gác cổng đứng nhìn sang đám
tang chép miệng:
- Tội nghiệp bà lão, chết không được
một tiếng khóc.
- Hoa nhiều quá, chắc bà làm gì to lắm? -
Tôi nói.
Ông già nhìn tôi vẻ thương hại:
- Con bà làm to. Hoa cho người sống đấy,
cháu ạ.
Tôi quay người, lau nước mắt./.
Trung Trung Đỉnh