ÔNG CHÁU NGƯỜI COI NGHĨA TRANG


Nghĩa trang liệt sĩ

Dựng cái chổi và chiếc xô tôn còn dính đầy vôi vữa bên ngoài chái nhà quản trang, ông Bộc bước vào trong với cái ấm đất, rót một chén nước uống rồi miệng nhẩm tính. Như thế là cộng với mười một ngôi mộ vô danh - hôm nay vừa quét xong, cả thảy ở nghĩa trang này có chín mươi ngôi lẻ một.

Không đủ kiên nhẫn ngồi uống hết chén nước, dường như còn áy náy điều gì, ông Bộc đứng phắt dậy, với tay lên bàn thờ nhà quản trang, lấy cuốn sổ bìa đỏ rồi cẩn trọng đặt xuống bàn, giở đi giở lại. Sợ lầm lẫn, ông Bộc bấm chặt ngón tay cái vào từng dòng trang sổ, đếm đến con số chín mươi mốt - cũng là con số cuối cùng của sổ ghi danh sách tên các liệt sĩ mà xã giao tất cả cho ông quản lý. Gấp cuốn sổ bìa đỏ vào chỗ cũ trên ban thờ, ông Bộc thấy yên tâm vì danh sách các liệt sĩ cũng đúng với số ngôi mộ ngoài nghĩa trang. Ông thư thái ngồi uống chén nước trong ngôi nhà quản trang hướng quay về phía tây. Lúc này, những tia nắng cuối cùng của mùa thu vàng rực, cũng nhạt dần sau luỹ tre xa xa ở phía ngoài con đê sông cái.

Thằng Nền, đứa cháu nội của ông Bộc - vừa ủ xong nồi cơm dưới bếp, đã bưng nồi canh cua nấu với mấy quả mướp hương vừa hái ở giàn thơm lừng - vô nhà, ríu rít nói với ông:

- Trường cháu mấy hôm nữa cũng tổ chức đi thăm những gia đình liệt sĩ, thương binh. Ông cho cháu xin hai nghìn để đóng với lớp mua quà ông nhé!

- ừ, ông sẽ cho! Nền này, hôm nay ông cũng vừa quét vôi xong tất cả các ngôi mộ ở nghĩa trang, ông thấy nhẹ nhõm quá! Bây giờ có mưa cũng chẳng sợ. Nền, cháu đã ra xem ông sửa sang nhà cửa của các liệt sĩ ở nghĩa trang chưa? Ngày mai chủ nhật, ông cháu ta cùng ra nhặt cỏ trên các mộ liệt sĩ nhé!

- Vâng. Thế tại sao mộ lại gọi là nhà hả ông?

- Người sống thì có nhà che mưa che nắng. Còn người chết thì có ngôi mộ để che hài cốt bên dưới mà cháu. Thế gọi là nhà chứ sao.

***

Ông Bộc thật ra không phải là trai tế của làng Tân Minh. Ông quê ở vùng núi xa lắm. Phải duyên cô gái ở làng, thế là ông theo vợ về ở hẳn quê Tân Minh tới nay đã gần bốn chục năm. Ông sinh được ba người con, hai trai một gái. Người con gái cả lấy chồng xa khác huyện. ở Tân Minh bây giờ, đúng ra chỉ còn một người con trai, nhưng bao giờ ông cũng tính là hai, vì ông nghĩ thằng út dẫu đã hy sinh, nhưng nó như vẫn còn bên ông ở cái đất làng này. Sau khi nhận được tin thằng Hậu hy sinh ở chiến trường, vợ ông nghĩ ngợi đổ ra ốm nặng rồi cũng qua đời...

Ông còn nhớ, cũng đã lâu lắm rồi, một hôm, ông Chủ tịch xã và ông Chủ tịch Mặt trận, hình như đi theo còn có một thanh niên, chắc là làm ở đoàn thanh niên xã đến nhà đề nghị ông giúp trông coi nghĩa trang và quản lý khu nghĩa địa của xã. Lúc đầu ông chưa nhận vì còn phải suy nghĩ. Ngay tối hôm ấy, biết chuyện, người con trai lớn tỏ ra không đồng tình:

- Bố trông coi làm sao được. Chỉ sợ lên đó được ba bảy hai mốt ngày thì bố buồn mà thoái thác bỏ về.

Thấy con nói vậy, ông Bộc chỉ lặng im suy nghĩ... Nửa tháng sau, ông Chủ tịch xã lại đến đặt vấn đề như hôm trước. Lần này, ông Chủ tịch nói thẳng với ông Bộc:

- Chúng tôi đã họp và bàn đến việc này. Anh em đều bảo là, chỉ có bác mới gánh vác được, phải là người có tâm, có đức. Vả lại, tôi nghĩ, bác lên đó phải đâu xa lạ, gần thêm chú Hậu, người con út liệt sĩ của bác cũng là người trung hiếu của đất này đã hy sinh vì nghĩa nước. Bác lên đó, xã sẽ đổi mảnh ruộng ở đồng ngoài về khu miếu, gần nghĩa trang để bác làm cho tiện.

Nghe Chủ tịch xã nói đến đây, ông Bộc khẽ cười, thành thật nói:

- Như vậy là, các ông và bà con ở xã chưa hiểu được tấm lòng của tôi. Tôi là dân "ngụ cư", là chàng rể của đất làng này... Phải đâu tôi ngại khó khăn cơ cứ!

Biết được nỗi niềm ấy của ông Bộc, Chủ tịch xã nắm chặt lấy đôi bàn tay chai sạm của người lính già năm xưa, nói quả quyết, chân tình:

- Không ai khác, bác phải giúp xã việc này.

Thế là từ bữa ấy đến nay, đã hơn bảy năm trời rồi. Lúc đó thằng Nền đứa cháu nhỏ của ông Bộc mới độ bảy tuổi. Ông còn nhớ rõ khi ấy, rủ thằng cháu lên chơi nghĩa trang với ông, nó còn bảo sợ lắm. Bây giờ, thằng Nền nó đã mười bốn tuổi đang học lớp tám. Nó đã biết cắm nén hương lên mộ của chú Hậu, và hỏi nhiều chuyện về người con út của ông đã hy sinh ở chiến trường như thế nào...

***

Thời gian trôi nhanh quá, thế là ông đã gắn bó với những linh hồn liệt sĩ ở nghĩa trang này thiếu mấy tháng nữa là tròn tám năm. Như một thói quen thường nhật, khi mọi người đến viếng nghĩa trang về nhà cả, bao giờ ông Bộc cũng nán lại hồi lâu đi quanh các ngôi mộ. Những giây phút ấy, ông thành tâm theo dõi từng nén nhang đang cháy trên các ngôi mộ liệt sĩ. Ông để ý xem hương của ngôi mộ nào cháy hết, và ngôi mộ nào hương thường tắt dở dang. Rút nén hương tắt, ông thay vào đó nén hương khác. Ông thầm nhủ lòng mình không bao giờ được quên những người đã khuất, nhưng cũng là để nói với các liệt sĩ về cả những gì còn khiếm khuyết của dương thế. Ông cũng dành thời gian nhiều nhất để đến với những ngôi mộ còn khuyết danh, vì thế mười một ngôi khuyết danh ở đây không khi nào ngớt hương khói. Và ngay cả tám mươi ngôi mộ có tên, ông cũng thuộc lòng từng ngôi. Nằm ở phía Tây của nghĩa trang này là ngôi mộ của ông Thanh, ông Lưu, ông Thuận... Họ là những người chạc tuổi ông, hy sinh thời đánh Pháp đuổi Nhật. Phía Nam kia là những ngôi mộ của các chiến sĩ thời đánh Mỹ. Phần lớn họ còn trẻ, trong đó có cả thằng Hậu, người con út của ông, mà ông vẫn thương họ như những đứa con. ấy là mộ thằng Thạch, thằng Bàn, thằng Thắng..., chúng đã từng tham gia chiến dịch Mậu Thân, Đường 9, Nam Lào. Rồi phía Đông kia là mười một ngôi mộ khuyết danh được quy tập riêng theo sơ đồ của nghĩa trang. Phải nói thật rằng, trước khi ông Bộc chưa về trông coi nghĩa trang này, trẻ nhỏ thường để trâu bò vào gặm cỏ, chúng chơi trò tập trận giả ở khu miếu và ở nghĩa trang. Nhiều ngôi mộ không được trông coi chu đáo bị sứt mẻ, xuống cấp. Về được ít bữa, nhìn thấy cảnh tượng này, lòng ông Bộc xót như dao cứa. Ông đã dùng tiền góp nhặt của mình, và xin xã một ít tiền mua xi măng, vôi, gạch, tu sửa lại. Thậm chí, có ngôi mộ chẳng may bị lún, sụt, ông Bộc đã bàn với xã thay tiểu, xây lại phần mộ chu đáo.

Một điều làm ông rất thương cảm là có một số chiến sĩ quê ở miền Nam hiện cũng còn nằm lại nghĩa trang này. Càng nghĩ, ông càng thấy mình như còn nhiều thiếu sót với những linh hồn liệt sĩ đang an trụ tại đây. Nhiều đêm trời trở bão, gió vặn cành, vặn lá, những cây cổ thụ xanh rì bên ngoài nghĩa trang ầm ào, ông không sao chợp mắt được. Trong mưa gió, lòng không yên, nghe như có tiếng người vọng lại. Ông bật dậy, đốt ngọn đèn bão, đặt lên ban thờ, thắp nén hương ở ngôi nhà quản trang, rồi vội vã cầm đèn pin, lao vào trong đêm bất chấp mưa gió ra tận các ngôi mộ. Đợi lúc trời ngớt ngát, ông bật đèn thắp nhang nơi nhà bia của nghĩa trang. Có lần ông Bộc ở đó cho đến sáng...

Từ khi ông trông nom nghĩa trang này, quang cảnh nơi đây sáng sủa hơn, cây cối ở quanh khu ngày càng xanh tốt. Hoa bên mộ các liệt sĩ mùa nào hoa ấy nở. Những bông cúc đã vào tiết cuối thu rồi mà vẫn vàng rực rỡ. Ông với thằng Nền, đứa cháu nội, đã gắn bó bảy tám năm ở cái nghĩa trang này. Hai ông cháu vui vầy sớm hôm. Có những buổi sáng trăng đẹp trời, ông Bộc thường ra mộ trò chuyện với thằng Hậu con ông. Nhìn bức ảnh lồng kính trên mộ, thấy Hậu mỉm cười, ông ngỡ nó không hề xa ông chút nào. Ông chỉ thương Hậu còn quá trẻ. Nhiều lúc ông tưởng nó vừa đi học về đến sân nhà chào ông như ngày nào. Khi thì tâm cảm nói chuyện với đứa con út, lúc thì ông Bộc lại đưa tay run rẩy lần lên những gương mặt liệt sĩ khác. Ông xoa tay nhẹ trên những tấm ảnh mà như chạm vào da thịt họ.

Hôm nay, như thường lệ, khi mọi người đến viếng nghĩa trang ra về cả, ông Bộc ở lại bên những ngôi mộ khuyết danh. Ông bật lửa, thắp thêm một tuần nhang vào mười một ngôi mộ đó và ông tự coi đó như mình là người thân của họ. Vừa thắp, ông vừa thì thầm như trò chuyện với ai đó. Có lần thằng Nền, đứa cháu nội đã nấu xong bữa cơm chiều chờ mãi không thấy ông về, nó đảo ra nghĩa trang, tìm ông. Nó đặt tay vào lưng ông, hỏi:

- Ông đang nói chuyện với người chết à?

Ông Bộc quay lại cười trước sự non dại của nó. Rồi ông kéo thằng cháu vào lòng xoa đầu nói nhỏ:

- Cháu à, có phải ai chết cũng đều là chết cả đâu! Hãy yên lặng để ông nói chuyện tiếp với các liệt sĩ. Cháu biết không, các bác, các chú đang nằm đây đâu có chết mà vẫn sống mãi với mọi người!

Mãi đến lúc xẩm tối, hai ông cháu cùng lễ lạy các hương hồn liệt sĩ, rồi mới trở về ngôi nhà quản trang bé nhỏ đầu làng./.

Nguyễn Đức Sinh

 

     

 

Trang ch  |  English  |  Kỳ trước | Âm thanh


Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ-Hà Nội ĐT: (84 4) 9344231

Fax: (84 4) 9344230 Email:[email protected]

Tổng Biên tập: ĐINH THẾ LỘC