Thảo nguyên không có cây.
Tại sao không có cây? Chàng trai trẻ có đôi
mắt trong veo xanh biếc, cao hơn tôi ít nhất
ba tấc, khẽ nghiêng người và hơi cúi
mái đầu vàng hoe xuống gần mặt tôi hỏi
với giọng từ tốn đầy khích lệ,
như thầy giáo đang gợi ý và cổ vũ
đứa học trò động não.
Tại sao không có cây? Thảo nguyên mênh mông bạt
ngàn chỉ có cỏ và cỏ, không một bóng cây
nào. Tuyệt nhiên không. Thổ dân sống trong những
túp lều cỏ, những cái lều được
vẽ như thật trong bức tranh thảo nguyên
chạy dài suốt bức tường viện bảo
tàng lịch sử tự nhiên. Trong viện này người
ta trưng bày xương của một số loài
bò sát khổng lồ, chim nhồi bông đủ loại,
và tượng sáp thổ dân, những người
sống giữa thảo nguyên có lẽ cả ngàn năm
trước khi người da trắng tới.
"Tổ tiên chúng tôi đến đây hai trăm
năm trước, họ chỉ thấy thảo
nguyên mênh mông, không một bóng cây...".
Chúng tôi tức là chàng trai trẻ này và những
người Mỹ trắng khác sống trên mảnh
đất trù phú bên bờ tây sông Mississipi. Khi tôi
dè dặt đẩy cánh cổng khổng lồ của
viện bảo tàng, cẩn thận thò đầu vô
trước nhìn xem có chỗ nào là quầy bán vé
tham quan hay bàn hướng dẫn, đại loại
như vậy, thì chàng trai này xuất hiện, rất
lịch sự nhã nhặn xin được giúp
tôi. Anh ta tự giới thiệu:
"Tôi là Steve"
Tôi nói tôi là Tuyết, anh ta không thể phát âm
được chữ Tuyết, nên tôi tự dịch
tên mình sang tiếng Anh: Snow, và nói thêm là thật
ra ở xứ tôi không hề có tuyết. Anh ta lập
lại:
"Chào Snow. Thế cô đến từ đâu?"
"Việt Nam"
"A"
Vẫn lịch sự vui vẻ, nét mặt Steve
không tỏ ra là có biết một nước Việt
Nam ở đâu đó trên thế giới này. Tôi
áng chừng anh ta hai mươi tuổi hay cỡ
đó, một sinh viên như những sinh viên mà
tôi ra vô gặp gỡ hoài ở ký túc xá, phần
lớn họ đều lịch sự và sẵn
sàng giúp đỡ như thế. Steve đưa tôi
đi qua tất cả các phòng trưng bày, giải
thích rằng vùng đất này vào thời xưa
thật là xưa vốn là đại dương,
giờ còn đây những sò ốc cá tôm hoá thạch
nằm trong tủ kiếng như bảo vật. Rồi
có một thời kỳ lâu lắm, băng hà ngự
trị. Vùng đất này cũng từng là rừng
rậm. Rồi thảo nguyên. Thảo nguyên mênh
mông trống trải không một bóng cây.
"Cô có thấy thảo nguyên bao giờ chưa?"
"Có"
"ở đâu?""Củ Chi. Quê tôi đó
mà".
Thực ra Củ Chi vốn không có thảo nguyên.
Ngày tôi còn nhỏ được mẹ cõng chạy
tản cư, tôi ngoái nhìn ngôi nhà mình ở giữa
vườn cây. Những năm sống ở đô
thành tôi vẫn nhớ rất rõ cây ổi tôi thường
trèo chơi, nó còn cao hơn cả mái nhà. Hoà bình,
tôi trở về quê, đứng trên gò nhìn quanh quất
lạ lùng: mênh mông đồng trống không một
bóng cây, gió thổi thông thống, tầm mắt
hun hút tận chân trời, và mặt đất chỉ
mọc rặt một loại cỏ cao trổ bông
màu nâu đỏ thành chùm như đuôi chồn,
người ta gọi là cỏ Mỹ.
"Cô biết tại sao thảo nguyên không có
cây?"
Tôi nghĩ là tôi biết tại sao Củ Chi ngày
tôi về mặt đất không một bóng cây. Nhưng
tôi nhìn chàng trai đứng trước mặt, tự
nhủ là anh ta còn quá trẻ. Anh ta biết gì về
bom B52 hay chất độc màu da cam?
"Tại sao?"
Tôi đóng vai một đứa học trò ngơ
ngác, hỏi lại cái câu hỏi bị hỏi.
Steve vui vẻ nói rằng thực ra không ai biết
cả. Không ai thực sự biết là tại sao
thảo nguyên không có cây. Các giáo sư của Steve
giả đoán rằng thổ dân đốt lửa,
gió thổi lửa cháy lan, cây cao chết cháy, cỏ
mọc lại sau mùa đông. Có thể thổ dân
đã chặt đốn cây, có thể một biến
cố tự nhiên nào đó... Không ai biết chính
xác cái gì đã diễn ra nơi đây trong suốt
thời gian dài người da đỏ sống
ở đất này.
Nhưng hai trăm năm người da trắng
chinh phục thảo nguyên, có lịch sử rất
chi tiết: Người đầu tiên đến
đây tên gì, bằng phương tiện nào, từ
đâu đến, cư ngụ ở đâu, chết
ngày nào, mộ phần còn ghi trên bảng hướng
dẫn du lịch của địa phương. Rồi
ai xây ngôi nhà thờ đầu tiên, ai mở con
đường xuyên qua thị trấn, trường
đại học khánh thành ngày giờ nào, nhà máy
sản xuất nông cụ thuộc hàng lớn nhất
thế giới bắt đầu từ lò rèn của
người thợ gốc nông dân ra sao, rồi xa lộ
cao tốc, siêu thị K-Mart, Wal-Mart, rồi đồ
ăn liền McDonald... Bằng giọng tự tin và
thái độ tự hào, Steve nói lưu loát về
hai trăm năm mở cõi dựng xây của những
người tiên phong, trong đó có ông sơ bà sơ
của anh.
Bỗng nhiên anh dừng lại hỏi tôi:
"Cô có sao không?"
"Không sao. Tôi chỉ nhớ nhà".
"Tôi hiểu. Campus toàn những ngôi nhà đá
khổng lồ, chắc là cô phải nhớ thảo
nguyên. Chúng tôi có một khu bảo tồn thiên
nhiên, giữ lại một vùng thảo nguyên như
hai trăm năm trước. Khi nào rảnh tôi có
thể đưa cô đến đó cho cô đỡ
nhớ nhà".
"Cám ơn Steve".
Chàng trai tử tế như vậy, tôi còn biết
nói gì hơn lời cám ơn?
Chủ nhật, Steve gọi điện thoại.
Anh nói là nếu tiện cho tôi thì buổi trưa
anh sẽ đến đón tôi đi chơi thảo
nguyên. Tôi hơi bối rối. Khi ở viện bảo
tàng Steve nói sẽ đưa tôi đi thảo nguyên,
tôi nghĩ anh nói lịch sự vậy thôi. Những
người Mỹ tôi quen biết ở đây
đều là mới quen biết, những sinh viên
trẻ và sẵn sàng giúp đỡ. Judie chở tôi
đi chợ Tàu ở một thị trấn khác,
cách một giờ đồng hồ lái xe, khi tôi
không tìm được những gia vị cần
thiết ở siêu thị trong vùng. Clara cho tôi mượn
máy sấy tóc khi thấy tôi xoã tóc dài vừa gội
xong còn ướt, thời tiết ở đây thay
đổi nhanh, trời có thể lạnh đột
ngột, sẽ làm tôi bệnh đấy. Và bây giờ
là Steve, thấy tôi nhớ nhà muốn đưa tôi
đi chơi thảo nguyên. Thì đi.
Vạt thảo nguyên bảo tồn tuy không mênh
mông cũng gợi dậy nỗi hoang sơ. Cỏ
ở đây trổ bông trắng và xám. Không có
gió. Steve quàng cánh tay to lớn qua vai tôi hỏi tôi
có lạnh không, một cảm giác mâu thuẫn làm
tôi rùng mình: vừa cảm thấy được
che chở vừa sờ sợ. Steve ân cần nói:
"Nếu cô cảm thấy lạnh thì nên trở
vào ngồi trong xe".
Nhưng tôi không cưỡng được ý muốn
đi dạo theo những lối mòn dẫn vào khu rừng
đang nhuốm màu vàng hoe bên cạnh thảo
nguyên xám, nó giống một công viên được
chăm chút hơn là một khu rừng. Steve nói nó
là công viên, phía bên kia có chỗ cắm trại.
Anh dẫn tôi đi loanh quanh, giải thích về
các loài cây cỏ, hái mấy cái nấm đưa
tôi cầm. Ven lối mòn có một loài cỏ lá li
ti đang trổ bông, những cái bông trắng tím
li ti, đẹp lạ lùng, tôi ngồi xuống ngắm
chúng đến ngẩn ngơ, Steve cũng ngồi
bên cạnh, ngắm toi. Những chỗ đường
dốc hay gập ghềnh, Steve đưa tay cho tôi
nắm, có khi anh đỡ tôi, nhấc bỗng tôi
qua một cái hố nhỏ và cạn.
Chiều xuống nhanh, trời lạnh đột
ngột, lạnh đến nỗi rằng tôi đánh
bò cạp. Steve bảo tôi chạy cho ấm người
lên, cả hai chạy về xe. Tôi ngồi co ro,
Steve chồm qua người tôi kéo dây đai an toàn
thắt lại cho tôi. Tôi chưa quen chuyện
ở xứ này cứ lên xe ngồi là phải thắt
đai an toàn. Lúc đón tôi ở ký túc xá, Steve phải
nhắc tôi thắt đai kẻo bị phạt. Bây
giờ tự tay anh thắt đai cho tôi, lúc anh chồm
qua người tôi kéo dây đai, tôi nghe được
cả tiếng trái tim anh đập mạnh, tim tôi
cũng vậy, hai người vừa mới chạy
bộ qua một quãng đường dài mà.
Xe Steve chạy rất nhanh, con đường dài
thẳng băng vắt qua những cánh đồng
bắp đã thu hoạch, trống trơ, đó
đây chỉ còn rải rác những cuộn thân bắp
khô được máy đánh thành từng khối
to hình trụ. Thỉnh thoảng một ngôi nhà nằm
chơ vơ giữa đồng, nổi bật những
cái "bồ" bắp bằng kim loại màu bạc
cũng hình trụ tròn, to và cao gấp đôi gấp
ba mái nhà. Những cái máy nông nghiệp ở đây
giống như cả một nhà máy di động,
chạy ì ì trên đồng. Tôi không biết nó là
máy cày máy kéo hay máy gặt hái, chỉ thấy nó
chạy ì ì ở xa xa thôi. Những ngôi nhà xa xa cũng
luôn đóng cửa, mỗi khi nhìn chúng, tôi lại
tự hỏi người ta sống như thế nào
bên trong những cánh cửa kia?
Tôi nói với Steve là ở quê tôi, tất cả
những ngôi nhà ban ngày đều mở cửa, trừ
khi nhà vắng chủ, nên khách qua đường có
thể nhìn thấy phần lớn sinh hoạt của
nông dân, và có thể ghé vào mà không ngại sự
đường đột. Steve nhân câu chuyện hỏi
thêm đôi điều về tập quán con người
và phong cảnh Việt Nam. Câu chuyện qua lại
nói chung cởi mở vui vẻ. Tôi do đó không
để ý đường đi. Thật ra tôi chưa
thể nhận ra hệ thống đường xá
phức tạp ở đây, vả lại cảnh
trí đơn điệu, lúc nào cũng là con
đường vắt qua đồng trống.
Nhưng xe chạy một hồi lâu tôi nhận ra
là chiếc xe không chạy về khu đại học,
nó chạy cả giờ đồng hồ rồi mà
vẫn còn lao trên con đường băng qua
đồng trống. Tôi hỏi Steve:
"Anh đang đi đâu?"
Steve quay qua nhìn tôi mỉm cười:
"Cô muốn biết người ta sống
như thế nào trong những ngôi nhà kia, phải
không nào?"
Anh cho xe chạy chậm lại như tìm một
vị trí thích hợp để dừng lại.
"Nhìn kìa"
Theo hướng nhìn của Steve, tôi thấy một
ngôi nhà nằm giữa đồng trống, như
những ngôi nhà khác tôi đã thấy, nổi bật
trong bóng chiều mấy "bồ" bắp khổng
lồ màu trắng. Nhưng trong mắt Steve có một
tình cảm thân thiết riêng tư.
"Đó là nhà của ba má tôi".
"Anh định đưa tôi về nhà ba má
anh sao?"
"Nếu cô không phản đối".
Tôi bối rối. Tôi không biết ở đây
một chàng trai đưa một phụ nữ về
nhà ba má mình vào lúc chiều hôm có khiến cho người
ta nghĩ đó là người yêu của anh ta
không? Dù sao thì tôi tự thấy mình quá già để
đóng vai đó.
"Tôi nghĩ cũng nên nói cho cô biết, ba
tôi là một cựu chiến binh Việt Nam".
Nghĩa là ba của Steve từng tham dự cuộc
chiến ở Việt Nam. Điều này tôi hơi
bất ngờ, mặc dù tôi cũng đã từng
gặp một số cựu binh Mỹ từng chiến
đấu ở Việt Nam, có đọc một số
sách họ viết hoặc viết về họ.
Tôi không hiểu vì sao Steve nghĩ là anh nên nói cho
tôi biết điều đó.
"Ba của anh có bị... di chứng rối loạn
sau chiến tranh không? Một số cựu binh tôi từng
gặp hay nói về cái đó".
"Tôi nghĩ là không. Ba tôi bình thường
như một nông dân Mỹ bình thường. Ông
làm nghĩa vụ đối với đất
nước, rồi trở về canh tác trên cánh
đồng của ông, nuôi các con trưởng thành,
là một người chồng tốt và một người
cha tốt".
Steve còn đưa tay vỗ nhẹ lên tay tôi như
để trấn an: "Ông ấy rất tốt".
Lúc này Steve đã cho chiếc xe ngừng hẳn,
như chờ quyết định của tôi. Nào
tôi có ngại gặp một người từng là
lính Mỹ ở Việt Nam, nhưng nếu đẩy
cho tôi quyết định vào nhà ông ta đột
ngột như vầy, không lường được
phản ứng của ông ta khi gặp một người
từ Việt Nam đến, thì tôi thật tình bối
rối. Steve lại nắm bàn tay tôi vỗ về:
"Xin lỗi. Tôi đưa cô về ký túc xá
nhé?"
Tôi gật đầu, Steve cho xe chạy. Chàng trai
này biết cách đánh tan một sự căng thẳng
bằng những câu chuyện thú vị, một câu
đùa vui, một nhận xét hóm hỉnh. Thật
tình, anh ta vô tư làm sao. Tôi chờ anh dứt câu
chuyện về những con nai băng qua đường
tìm bạn tình gây ách tắc giao thông.
"Ba anh có nói là ông ở chiến trường
nào ở Việt Nam không?’"Không. Ba tôi không bao
giờ nói về chiến tranh trong ngôi nhà mình. Năm
tôi mười tám tuổi, ông nói với tôi về
Việt Nam lần đầu tiên, thực ra là về
tình dục chứ không phải chiến tranh. Ba năm
trước, ông đưa tôi, trên con đường
này, đến trường đại học, và bảo
rằng bây giờ ba sẽ nói chuyện với con
như với một người đàn ông. Ba tôi
kể lại khi mười tám tuổi, ông nội
đã lái xe đưa ông đi nhập ngũ. Ông
đi Việt Nam khi hãy còn là một cậu bé và
trở về là một người đàn ông. Ông
nói người ta không nhất thiết phải trải
qua chiến tranh mới thành đàn ông, và hy vọng
tôi có những kinh nghiệm khác. Tôi muốn biết
kinh nghiệm của ông. Ông nói về những cô
gái điếm và những đứa trẻ bụi
đời. Tôi xin lỗi. Mỗi đất nước
có những thứ khác hơn, nhưng rất tiếc
ba tôi chỉ biết về Việt Nam như thế".Từ
khi sang đây toi để ý không thấy mặt trời
mọc hay mặt trời lặn, bầu trời
mùa thu lúc nào cũng đầy mây, ban đêm cũng
không có trăng sao gì hết. Chỉ có những
đốm đèn pha di động trên đường,
và bên đường là những cột mốc phản
quang. Chắc là xe đang chạy băng qua những
cánh đồng bắp ngày xưa là thảo nguyên
của thổ dân. Steve lại kể tiếp câu
chuyện về ba anh.
"Có một lần ba tôi đưa tôi khẩu
súng, bảo tôi bắn chết con ngựa già mắc
bệnh ung thư của tôi. Bác sĩ thú y bảo
là nó không thể sống qua một tháng nữa và
đó sẽ là một tháng đau đớn hành hạ.
Tôi bắn chết con ngựa mà tôi đã cưỡi
từ hồi còn là cậu bé lên mười. Xong tôi
hỏi ba tôi ông đã từng giết ai chưa?
Ông nói ngay là chưa, rồi ông nói, không kể hồi
ở Việt Nam, thực sự ba chưa lần nào
đối mặt kẻ thù, hầu hết các cuộc
tấn công xảy ra ban đêm, ba chỉ xả
súng vào bóng tôi, không biết đạn của mình
có giết ai không".
Ban đêm ở quê tôi đầy bóng tối vì
không có đèn điện, thấp thoáng những
đốm sáng leo lét của ngọn đèn dầu
hay ngọn nhang thắp trên bàn thờ thiên. Những
đêm trăng ba tôi trải chiếu trước sân
nhà hóng mát. Đêm có mùi thơm của lá sả tươi
đốt để hun khói xua muỗi. Mẹ tôi kể
chuyện con thằn lằn uống dầu đèn của
vị sư nôn nóng muốn thành chánh quả. Tôi hỏi
mẹ tại sao Phật lại khiển trách vị
sư đã giúp hoá nghiệp con thằn lằn, chẳng
phải Phật dạy đời là bể khổ,
chết là luân hồi sang kiếp khác sao? Mẹ
nói sự sống không do mình tạo ra, mình đâu
thể tự cho mình quyền huỷ diệt. Vật
trong trời đất có sự sống là có mạng
số, mạng xoay vần cùng vũ trụ, chứ
đâu ở trong tay một người nào mà tự
cho mình quyền định đoạt số phận
người khác.
Bàn tay của Steve lại chạm vào tay tôi.
"Snow, cô biết không? Từ khi ba tôi kể
chuyện Việt Nam, tôi thỉnh thoảng nghĩ là
có thể ở Việt Nam tôi có một người
anh hay chị khác mẹ. Sao lại không? Có thể
không chỉ là một. Thời của ba tôi, ông
ấy không dùng bao cao su".
Tôi rời mắt khỏi bóng đêm trên thảo
nguyên quay lại nhìn Steve. Anh ta cười hồn
nhiên, nói tiếp, cũng rất hồn nhiên.
"Khi cô nói cô đến từ Việt Nam, ý
nghĩ của tôi lúc đó là: cuối cùng tôi cũng
gặp được người chị của mình,
hay người bà con của anh chị mình".
Tôi bật cười.
"Steve, anh sẽ là một nhà ngoại giao xuất
sắc".
Steve cũng cười.
"Không đâu. Tôi sẽ trở về nông trại,
làm một nông dân".
Đêm thảo nguyên thăm thẳm. Câu chuyện
của Steve lại chuyển sang một loài chim
ưng thường bay trên thảo nguyên. Anh bảo
hôm nào phải đưa tôi đi lên gò gấu
(Bear Mound) xem chim ưng bay liệng. Anh hẹn sau mùa
đông. Nhưng giữa mùa đông, lúc tuyết
đang rơi, thì tôi đã về quê tôi rồi./.
Lý Lan