Phố Hội là nơi tôi sinh ra và lớn lên.
Có thể nói, thời ấu thơ tôi đã trải
qua phần lớn ở phố cổ (Hội An) và
phần còn lại ít hơn ở Hàn (Đà Nẵng).
Hội An có ít cây. Dọc bờ sông rải rác một
ít dương liễu và bồ hòn. Trên vài con
đường khác và trong các sân trường học
trồng nhiều phượng vĩ mùa hè hoa nở
đỏ rực như phun lửa, và sầu đâu
(còn có tên là sầu đông, xoan) hoa tím nở từng
chùm. Từ thu qua đông cây rụng lá, cành khẳng
khiu. Cây xác xơ như người ốm giờ
xương, hắt hiu trước gió bấc, mưa
dầm. Một số cây da, theo tín ngưỡng dân
gian lúc bấy giờ là nơi u linh, nơi ngự
trị của các vị thần linh, chỉ trồng
trong khuôn viên của đền miếu, chùa chiền.
Rồi đến các cây phi lao được trồng
nhiều để giữ không cho đất chuồi
ở các cồn, các nổng và trên các trảng
cát mênh mông chạy dọc phía Tây bắc và Đông
bắc thị trấn. Lơ thơ trên các trảng
cát vài ba căn nhà tranh thấp cất gần nhau
thành từng cụm. Quanh nhà có hàng rào xương
rồng lớn lởm chởm gai nhọn. Cách quãng
trồng me tây (me keo) lá nhỏ xíu, trái công cong màu
xanh, cơm ăn được màu trắng phau, phớt
hồng, hột đen, dạng hơi giống trái
me chua. Có hàng rào trồng cây cườm gạo.
Đất bên ngoài nhà mọc đầy mắc cỡ,
bông bằng nút áo tròn trịa, màu hồng lợt,
nhỏ. Lá vội xếp lại khi tay sờ vào.
Các cây kể trên cây nào cũng có gai. Có thể
các loại cây có gai này chịu được gió
nắng và sống được trên mấy trảng
cát khô hạn.Từ đầu chợ thông xuống
bến sông hai con đường ngắn chạy
hai bên hông. Mỗi bên chỉ có một dãy phố
buôn bán tấp nập. Nhà tôi ở phía hông mặt.
Muốn qua đường bên kia phải băng qua
chợ. Đường bên kia, sát bên hông chợ,
một cây bàng cổ thụ bề thế, uy nghi, gốc
to bành như một khối đá lớn nổi u,
nổi bướu, giá ba người ôm cũng không
xuể. Cành lá sum sê nhiều tầng, đâm ngang
như một cây dù khổng lồ, gần như
che mát cả một góc chợ giữa và một phần
con đường. Rễ toả ra xung quanh, nổi
chằng chịt ngoằn ngoèo trên mặt đất
xung quanh gốc như những con trăn da nâu
điểm những đốm mốc.
Đặc biệt ở gốc cây tự nhiên
lõm vào một hục lớn ăn sâu vào thân cây.
Trong hục tự bao giờ ai đặt một cái
trang thờ bằng gỗ sơn đỏ, vẽ
hoa văn rồng chầu, phượng múa, mây bay
màu bạc, vàng xanh. ở trong cùng trang có mấy
hàng chữ Nho kẻ trang kim trên nền đỏ.
Rồi đến một bát hương luôn luôn
khói lên nghi ngút. Hỏi, mấy cụ già nói đó
là trang thờ thần sở tại. Phía trên cao
trang lồ lộ một lỗ lớn. Miệng lỗ
bị cháy sém. Trong lỗ là một cái bộng
sâu. Nghe kể lại trước kia là nơi
cư ngụ thường trực của con quỷ
một giò hay phá quấy dân chúng gần đó.
Theo lời dạy của thầy pháp, nếu nhà
nào có ai đau yếu kéo dài thì phải đem xôi,
gà, rượu đến đó cho thầy van vái
xin cho. Dĩ nhiên phần lễ vật này thì quỷ
thần chỉ hưởng cái hương cái hoa,
phần lớn còn lại thầy gói mang về,
thêm số tiền thù lao. Về sau, trong một
đêm mưa gió sấm chớp đùng đùng, người
ta đồn thiên lôi đã đánh vào bộng xẹt
lửa sáng loè. Con quỷ hoảng hốt phải
trốn biệt xứ. Một thầy pháp ở
ngoài Bàu ốc vỗ ngực tự xưng chính
mình trong đêm mưa gió ấy tay bắt quyết,
miệng niệm thần chú sai bọn âm binh đi
cầu viện. Thiên lôi vác búa giáng trần đánh
vào con quỷ dữ. Lớn lên, khôn ngoan hơn, tôi
nhận thức được rằng mấy lão
thầy pháp ở xứ Quảng tôi cũng là những
tay nói trạng, nói tướng có hạng lắm!Theo
trí tưởng tượng của người dân
mê tín dị đoan lúc bấy giờ, ngự trị
trên cây bàng còn nhiều vị thần linh ghê gớm
như bà hoả, thần cây, thổ thần, các
cô, các cậu thường đi rong chơi rồi
bất ngờ ghé lại nghỉ ngơi, còn con quỷ
một giò đã dời hộ khẩu và
đương bị thiên lôi tầm nã. Cuối
cùng thêm con tinh mặc đồ trắng toát thình
lình xuất hiện lè cái lưỡi đỏ chót
dài hơn một thước. Để kết thúc
danh sách hộ khẩu trên cây bàng phải nói đến
bà hoả, ác thần thường đốt nhà người
dân. Có người còn cam đoan đã từng
tình cờ thấy bà di chuyển trong đêm hôm
khuya khoắt. Từ ngọn cây xẹt ra một
đốm lửa tròn trịa, đỏ rực bằng
trái bưởi, sáng ngời cả một vùng rồi
thình lình biến mất...
Ngổn ngang xung quanh gốc và giữa những rễ
nổi cộm trên mặt đất nào bình vôi bể
bằng sứ hay cả bằng đất nung; bát
hương, lư hương bằng sứ bể
và nhất là các lò, các đầu rìu đủ loại
cũng bằng đất nung, nhưng phải thứ
đồ bể không dùng được, thêm vào
chén, bát bể. Tất cả chất từng đống,
từng cụm. Dân chúng quanh chợ và ở vùng
quê phụ cận bao giờ cũng gọi các thứ
di tích đồ gốm bể này là các ông: ông
lò, ông táo, ông nồi, ông niêu, ông trã, ông trách...
Bọn chúng tôi học trò tiểu học, nhà cửa
quanh quẩn xóm chợ là những đứa nghịch
ngợm nhất. Tuy vẫn một lòng tôn kính cây
bàng huyền thoại này, không bao giờ dám trèo
phá bắt chim non hay khoèo móc trái chín, loại trái
nổi tiếng là ngon nhất thị trấn. Nhưng
cũng không kiềm chế được tính tò
mò và vẫn không hoàn toàn tin vào những lời
huyền hoặc. Thỉnh thoảng làm như vô
tình lén nhìn lên ngọn cây để có thể thấy
được cái gì lạ. Lần nào cũng thấy
từng bầy sáo sậu, chào mào, bù chao bay về
đậu trên mấy cành rậm lá. Suốt ngày bọn
chim sâu nhỏ xíu vừa kêu líu lo vừa chăm chỉ
tìm bắt sâu trên lá, trên cành. Mỗi chiều khi
hoàng hôn xuống là đã nghe tiếng ríu ra ríu
rít sắc và nhọn như đâm vào lỗ tai của
biết cơ man nào là dơi từ trong các bộng
cây, các đám lá bay ra chập chờn trong bóng
đêm.
Những ngày hè trời oi bức, bọn trẻ
chúng tôi thường qua đêm ở hàng hiên ngay
trên bệ xi măng hoặc trên sạp gỗ dùng
để bày hàng trước nhà. Chẳng là từ
xưa, người ta vẫn đồn rằng
đêm khuya nằm ngoài mái hiên có thể nghe tiếng
vó ngựa rầm rập của con xích thố của
Quan Vân Trường trong chùa Ông ở con đường
chạy ngang đầu chợ. Ngựa thiêng chạy
xuống sông để ăn cỏ non và uống nước
bến sông. Còn nghe được tiếng ngựa
hí nữa.
Thỉnh thoảng ban đêm tôi thường kiếm
chuyện qua nằm ngủ với người bạn
ở hàng hiên, sát bên con đường tráng nhựa
chạy thẳng từ trước mặt chùa Ông
xuống đền mé sông. Gió sông thổi ngược
lên mát lạnh. Chúng tôi phải đắp mền
kín mít vì sợ... ma. Mền cũ rách mấy lỗ
ở một đầu. Chúng tôi cố ý đắp
đầu này lên mặt cho nên qua các lỗ rách,
hai đứa vẫn nhìn được lên cây
bàng mà chẳng thấy gì cả, chẳng nghe tiếng
vó ngựa và cả tiếng ngựa hí vang. Chưa
bao giờ thấy một trái cầu lửa sáng
loà trên ngọn cây hay xẹt vào không trung để
biết được bà hoả du hành đi
chơi đó đây.
Thuở nhỏ, nhiều loại trái như me, thị,
trái xay, xoài sống, ổi, trâm rất hấp dẫn
đối với chúng tôi. Nhưng phải công nhận
trái bàng chín có sức hút rất lớn. Mùi thơm
ngọt nhẹ nhàng như quyện vào mũi, không
chịu bay đi cho. Không để sát mũi vẫn
nghe mùi thơm. Giấu ở gầm ván ngựa, người
nhà đã ngửi thấy ngay. Gia đình cấm tuyệt
hái trái bàng chợ ăn vì sợ các vị khuất
mặt trên đó quở trách, bắt bệnh hoạn.
Sự thật chúng tôi chỉ bỏ ra ít xu mua của
anh em nhà Mót thì có một đống bàng hay một
đống me. Thắc mắc, tôi hỏi bà Sửu
bán thịt heo ngoài chợ, mẹ của một người
bạn học:
- Thưa bác, mấy anh em nhà Mót trèo cây, hái
trái, bắt chim con, xuống sông lăn lội cả
ngày, mót củi, chẳng sợ hà bá hay ma da nào vật
chết cả.
Bà Sửu mỉm cười trả lời một
cách tự nhiên:
- Đừng tin chuyện ma quỷ lộn xộn
đó mà mệt. Mấy anh em nhà Mót đói rách
quá thì còn sợ cái chi nữa? Chúng hái trái cây, bắt
chim non, mót củi là để bán lấy tiền
mua gạo. Có chọc ghẹo, hỗn hào gì với
thần thánh, ma quỷ nào đâu!
Từ đó nhờ cái lý luận dung dị và
thực tế của bà Sửu mà chúng tôi bớt
đi nhiều nỗi sợ hãi hão huyền đối
với cây bàng cổ thụ. Một mặt chúng
tôi mạnh dạn mua bàng, xoài sống, me chua cổ
yếm có tiếng trồng trong Toà đại sứ
Pháp của anh em nhà Mót bán và lần lần chúng
tôi dám ngừng lại nói chuyện bên cây bàng chợ
và dám nhìn lên tận ngọn. Mặt khác, các anh chị
lớn hơn ở xóm trên hoặc xóm dưới,
đêm tối mượn vị trí cây bàng làm nơi
hẹn hò, trò chuyện. Thế mà chẳng thấy
có chuyện gì nguy hiểm, khủng khiếp xảy
ra cả. Sáng ra chỉ thấy một số lá bị
xé vụn rơi vãi trên mặt đất và những
hình kỷ hà vẽ trên mặt đất trông giống
như chữ bùa, chữ Hời.
Trái bàng xóm chợ ngon đáo để. Màu da
vàng ửng đỏ, mượt mà. Phập răng
vào nghe thơm ngát, mềm ngọt như ổi sẻ
ruột đỏ chín. Ăn sạch cùi, rất sạch.
Còn lấy hột, dùng cục đá đập vỡ
vỏ cứng, lấy nhân bỏ miệng nhai nát, rất
bùi, rất bổ, rất ngon.
Chúng tôi còn lấy lá bàng tươi kết lại
làm mũ cánh chuồn và xưng vua với nhau. Có
khi kết lá lại khum khum và nhọn hai đầu
làm mũ calô, mấy đứa đội mũ
calô xếp một hàng dọc tập đi một,
hai như lính khố đỏ.
Và mỗi chiều, khi lá rụng nhiều ngập
cả xung quanh gốc bàng, có một bà giá quét gom
lại đổ vào hai giỏ lớn rồi gánh về
phía làng Câu (Phước Trạch, gần cửa
Đại, nay thuộc về Hội An). Được
biết đem lá bàng rụng về nấu nướng
nhuộm lưới đánh cá, lưới cũ
cũng như lưới mới để... lưới
được bền và giữ lâu được
màu nâu...
Hễ thấy bàng hết trái và bắt đầu
rụng lá thì biết đã gần đến Tết.
Chúng tôi mừng thấp thỏm mơ đến những
ngày đầu năm được ăn ngon, mặc
đồ tốt và rủng rỉnh trong túi ít nhiều
đồng xu, đồng giác (đồng hào,
đồng cắc) của người lớn mừng
tuổi cho.
Rồi những lá non ló ra mơn mởn màu lục
lợt. Mỗi ngày lá đâm ra nhiều, lớn
mau, rậm cành. Là đến hè...
Hết hè bàng bắt đầu chín. Trái bàng mũm
mĩm từng chùm, lòng thòng trên cành vẫy gọi
sự thèm thuồng của tuổi trẻ
đương sức lớn. Rồi mùa đông chợt
đến, gió lạnh, mưa rả rích... Cây bàng
xóm chợ rụng lá, rụng lá, những chiếc
lá vàng rồi đỏ au lần lần sẫm lại
màu mắm ruốc.
Ngày tháng trôi qua đều đặn, nhưng
cũng nhiều bất trắc, gian truân và thăng
trầm. Cách đây gần 60 năm, tôi theo gia
đình vào Nam lập nghiệp. Rồi lớn lên
đi đó đi đây, vì công việc, vì sinh kế
gần như không còn nhớ đến cây bàng
xóm chợ nữa. Bỗng nhiên gặp lại người
bạn cũ ở lục tỉnh lên chơi, tay bắt
mặt mừng, hàn huyên suốt mấy ngày liền.
Giữa những câu chuyện sôi nổi, thú vị
bỗng dưng tôi nhớ đến cây bàng và như
vô tình nói mà không chút suy nghĩ: "Không biết
tại sao lúc này tôi lại nhớ đến trái
bàng và mùi vị của nó. Trong này bộ ít thấy
trồng bàng và ăn trái bàng?". Người bạn
tủm tỉm cười. Độ ba bốn tháng
sau anh lại đến chơi nhà tôi. Trong chuyến
này anh mang lên một gói giấy xốp. Mở ra,
mùi bàng chín ngọt ngào bay khắp phòng. Một
mùi rất riêng, rất độc lập, không lẫn
vào đâu được. Tôi bàng hoàng nửa tỉnh
nửa mê, đứng tần ngần một lúc. Cả
một quá khứ ấu nên với hình ảnh cái
chợ, cây bàng, con sông Hoài, mấy dãy phố rêu
phong và mấy thằng bạn bé loắt choắt
nhưng tinh ranh hết biết hiện rõ mồn một
trong trí. Tôi bỗng nhớ câu Kiều của Nguyễn
Du: "Hương gây mùi nhớ...".
Nhớ mùi bàng chín, tôi tìm lại được
những mảnh ấu thơ vô tư, mấy
người bạn nhỏ hồn nhiên xóm chợ.
Đi gần hết quãng đời còn lại -
tôi nay đã 76 tuổi - nhờ hương bàng mà
nhớ lại, gặp lại chính mình, gặp lại
cậu bé của một thời đẹp nhất
và cũng sung sướng nhất.../.
Minh Hương