Còn hơn chục ngày nữa mới đến Hội
Đền Hùng. Thảo, con gái tôi nũng nịu:
- Mẹ ơi! Năm nay nhân tiện mẹ con
mình cùng ở Việt Trì, ngày mai chủ nhật, mẹ
đưa con đi thăm Đền Hùng nhé! Con chưa
biết Đền Hùng thế nào cả.
- ừ! mai mẹ cũng được nghỉ,
mẹ sẽ đưa con đi.
- Ôi! Thế thì vui quá! - Nó reo lên và rúc đầu
vào nách tôi.Thảo là con gái đầu của tôi.
Cháu đang học lớp 10 văn tại trường
chuyên Hùng Vương của tỉnh. Đợt này,
tôi đang tập huấn nghiệp vụ ở Việt
Trì. Hai mẹ con tôi có điều kiện bên nhau.
Những ngày đầu xa Thảo, tôi nhớ nó lắm.
Nhiều đêm trở mình, tôi thương nó
đến phát khóc. Ngần ấy tuổi đầu
đã phải xa mẹ, xa nhà, sống tự lập.
Tôi lo hoài không biết nó có chịu được
không? Thế rồi mãi cũng thành quen. Đợt
này đi công tác, gặp cháu, tôi thấy nó chững
chạc hẳn ra.
* * *
Nhận lời con gái xong, tôi nằm thao thức
mãi. Đền Hùng, nơi ấy là kỷ niệm
của mối tình đầu của tôi. Nhắc
đến Đền Hùng là tim tôi lại nhói lên
những kỷ niệm da diết ngọt ngào. Cứ
mỗi lần đi công tác, qua ngã ba Đền Hùng,
tôi không thể nào quên được nơi gặp
gỡ, hẹn hò với một người con trai
có tên là Tuấn. Mặc dù quê tôi mãi ở
Đoan Hùng nhưng tình yêu đầu đời của
tôi lại ở Thậm Thình dưới chân núi
Nghĩa Lĩnh.
Ngày đó, cách đây dễ đến hơn
hai mươi năm, tôi là một cô gái trông cũng
xinh xắn của khối lớp 10, lớp cuối
cấp 3 trường huyện. Tôi cảm nhận
được điều này là do thấy khá nhiều
chàng trai theo đuổi tôi, trong số đó có Tuấn.
Tuấn cao ráo, đẹp trai lại học giỏi.
Phải mỗi tội là Tuấn ít nói lắm.
trông Tuấn hiền khô. Cặp mắt Tuấn
ẩn chứa bao điều muốn nói. Cứ
cách ngày, trong hộp bàn học của tôi lại
có một lá thư của Tuấn. Những vần
thơ tuổi học trò trong trắng, mộng mơ.
Hồi ấy, tôi vô tư lự lắm. Vô tư lự
đến dửng dưng vậy. Chẳng bao giờ
tôi thư lại cho Tuấn cả. Đã thế,
Tuấn càng theo sát tôi hơn. Thư Tuấn viết
cho tôi càng nồng nàn hơn. Thi tốt nghiệp
xong, Tuấn nhập ngũ. Hôm chia tay Tuấn, tôi mới
giật mình, thương Tuấn quá. Phải chăng
tình cảm con người chính lúc xa nhau mới
càng bộc lộ rõ, kể cả lòng mình? Tôi vội
vã tìm Tuấn, tặng Tuấn một cuốn sổ
tay. Tôi cũng chưa nói lời yêu với Tuấn.
Tuấn xiết chặt tay tôi, lặng lẽ lên
đường.
Tôi thi trượt đại học. Bố tôi
quyết định cho tôi đi học trường
nghiệp vụ ngân hàng tỉnh. Trường này
đóng ở xã Kim Đức, gần Đền Hùng.
Tôi tiếp tục con đường học hành.
Những ngày xa quê, tôi mới có dịp nhìn lại
mình, nhớ tới bè bạn. Những lá thư của
Tuấn tôi còn giữ đủ cả. Bây giờ
chính đó lại là nguồn động viên chủ
yếu của tôi. Thế rồi chúng tôi gặp
nhau. Đơn vị của Tuấn đóng quân
ngay dưới chân núi Hùng. Đó là trung đoàn
Phong Châu của tỉnh. Chủ nhật nào cũng
thế, Tuấn đến trường tìm tôi. Vừa
là đồng hương, bạn học cũ, vừa
sẵn tình cảm thầm kín từ thuở cấp
3, chúng tôi quấn quít bên nhau. Con đường
dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, cánh rừng
thông, đồi bạch đàn nơi ấy đã
chứng kiến bao buổi hẹn hò của chúng
tôi. Những ngày chủ nhật, cả tôi và Tuấn
đều rảnh rỗi. Tuấn dắt tay tôi leo
núi. Càng lên cao, tôi càng choáng ngợp bởi phong cảnh
nên thơ của quê hương Đất Tổ.
Tôi thả rộng tầm mắt ngắm nhìn sông,
núi, trời, mây... Xa tít về phía đông nam kia
là dãy Tam Đảo. Chếch về phía tây là
đỉnh Ba Vì. Hai dãy núi như hai cánh cửa giữ
cho núi Hùng gối sơn đạp thuỷ. Xung
quanh chỗ chúng tôi đứng còn có bao nhiêu là ngọn
đồi nhấp nhô trùng điệp. Tất cả
đều quay hướng về đây. Các cụ
bảo rằng có 99 ngọn đồi như thế.
Đó là 99 con voi quay chầu mộ Tổ. Và kia,
sông Hồng, sông Lô như hai dải lụa bao bọc
uốn quanh, gặp nhau ở Việt Trì để
làm nên một thành phố công nghiệp ngã ba sông
Đầy mơ mộng. Gần hơn nữa
dưới nắng thu là những tàu cọ vươn
cao lấp loáng. Chúng tôi say sưa nhìn ngắm. Lần
nào cũng thế, sau khi dắt nhau đi thăm hết
các đền, leo rừng ngắm cảnh, hai đứa
tôi lại về nghỉ dưới bóng cây vạn
tuế nơi Đền Hạ. Tại đây,
chúng tôi đã kể cho nhau nghe bao điều hằng
ấp ủ. Chính gốc cây vạn tuế ấy
đã chứng kiến những lời yêu thương
thắm thiết của tôi và Tuấn. Chiếc nhẫn
bằng nhôm khắc hai chữ TX mà Tuấn trao tôi,
giờ tôi vẫn còn giữ. Tôi nhớ như in câu
Tuấn nói với tôi hôm trao chiếc nhẫn đó:
"Anh yêu em, Xuân ơi! Nhất định chúng
mình sẽ sống bên nhau trọn đời em nhé!".
Tôi hồi hộp sung sướng, lặng nhìn Tuấn,
khẽ gật đầu. Và chính cây vạn tuế
ấy đã chứng kiến nụ hôn đầu
đời của chúng tôi.
Thế rồi Tuấn có lệnh đi chiến
đấu. Dạo đó chiến tranh biên giới
phía tây nam ác liệt lắm. Tuấn không kịp
chia tay với tôi, chỉ để lại cho tôi một
lá thư và một bài thơ đau đáu hẹn
về. Từ đó tôi bặt tin Tuấn. Gần một
năm sau, tôi về quê thì nhận được
tin Tuấn đã hy sinh tại chiến trường
đất bạn. Tôi như quỵ xuống. Đôi
mắt tôi vô hồn gọi mãi tên anh. Mấy ngày
ở quê, tôi không rời mẹ Tuấn nửa bước.
Lưng mẹ đã còng giờ lại càng còng hơn.
Mẹ cũng linh cảm được mối tình
của tôi và Tuấn. Mẹ như câm lặng trước
bàn thờ đứa con trai yêu quý của mình.
Lòng tôi xót xa. Anh Tuấn ơi! Sao anh nỡ vội
bỏ mẹ và bỏ em mà đi thế! Tôi như
kẻ mất hồn, chẳng thiết gì nữa. Bố
mẹ tôi khuyên bảo mãi tôi mới trở lại
trường. Trời ơi! Mối tình đầu
của tôi! Và rồi thời gian cũng khoả lấp,
nguôi ngoai vết thương lòng đau đớn
ấy. Tôi đã cố gắng vượt lên. Tốt
nghiệp ra trường, tôi được phân về
huyện nhà công tác. Đã có bao người mối
lái dạm hỏi tôi, tôi đều từ chối.
Hình ảnh Tuấn vẫn in đậm mãi trong
tôi. Đến năm 25 tuổi, bố mẹ tôi
thúc ép quá, hơn nữa gặp được
người tâm đầu ý hợp, tôi đã
đi lấy chồng. Chồng tôi cũng công tác tại
huyện. Một năm sau đó, bé Thảo của
tôi ra đời. Chúng tôi chuyển nhà ra phố huyện
ở. Cuộc sống gia đình tôi khá hạnh
phúc. Không ai hay biết gì về mối tình đầu
của tôi và Tuấn.
Một thời gian sau, Tuấn đột ngột
trở về. Mặt Tuấn đầy sẹo nhằng
nhịt. Một chân Tuấn bị cụt đến
tận háng, phải chống nạng để
đi. Cả làng tôi xôn xao khi được tin
đó. Tôi bàng hoàng không dám nghĩ đó là sự
thật. Tôi tức tốc về quê. Nhà Tuấn
vui như mở hội. Tôi len qua mọi người
để vào gặp Tuấn. Ngực tôi rung lên.
Tôi cố giữ bình tĩnh. Đến nơi, tôi
không nhận ra Tuấn nữa. Chỉ có đôi mắt
của anh, vâng, chỉ có đôi mắt của anh
là vẫn nguyên của tôi ngày đó. Tôi sững lại
giây lát rồi giữa bao người như thế,
tôi lao đến bên anh: Anh Tuấn! Rồi tôi oà
khóc. Mẹ Tuấn đỡ tôi dậy. Tôi càng
khóc to hơn. Tuấn vỗ về: "Xuân ơi!
Chuyện dài lắm! Rồi anh sẽ kể em
nghe!". Tôi không chịu được nữa. Hình
như nỗi tủi thân, trách cứ và thương
Tuấn được dịp trào ra. Tôi gào lên:
Anh Tuấn!...
Sau cái hôm Tuấn về, chúng tôi có một buổi
dành riêng cho nhau. Tuấn kể cho tôi nghe về việc
Tuấn bị "hy sinh" ở mặt trận.
Đó là vào năm 1977, đơn vị Tuấn
được lệnh đánh vào sào huyệt của
bọn Pôn Pốt. Chiến sự ác liệt. Tuấn
bị lạc đơn vị và lĩnh trọn một
trái pháo. Khi tỉnh lại thì đã thấy mình
ở trong một ngôi chùa cổ kính, thấp thoáng
bóng các nhà sư đi lại. Họ đang tập
trung cứu chữa cho Tuấn. Rồi chẳng biết
họ chuyển Tuấn đi đâu nữa cả.
Mãi đến năm 1979, giải phóng Phnôm Pênh
xong, Tuấn được một đơn vị
của ta tiếp nhận và chuyển Tuấn đi
an dưỡng. Tuấn ra Bắc về trại
điều đưỡng thương binh nặng
ở Nam Hà. Được ít ngày thì hay tin Xuân
đã lấy chồng và có bé Thảo. Tuấn vừa
buồn lại vừa mừng. Đắn đo mãi,
Tuấn mới quyết định về quê. Định
bụng sẽ ở hẳn trại không về nhà
nữa, sau rồi nghĩ tới bố mẹ già
nua ngày đêm ở nhà khói hương cho Tuấn,
Tuấn không cầm lòng được.
Tôi nghe Tuấn kể mà lệ cứ rưng
rưng: Em có lỗi với anh. Tha lỗi cho em anh Tuấn
nhé! Cầm tay tôi, thấy ngón tay tôi vẫn đeo
chiếc nhẫn mà Tuấn tặng tôi ngày nào, Tuấn
khẽ nói: "Em không có lỗi gì cả. Anh mừng
cho em và chúc em hạnh phúc". Tuấn ở nhà chơi
ít ngày, sau đó lại trở về trại
điều dưỡng.
* * *
Ngày mai tôi sẽ đưa Thảo đi thăm
Đền Hùng, tôi sẽ tìm lại kỷ niệm
xưa với Tuấn ở bên gốc cây vạn tuế
đầy thương nhớ ấy.
Sáng dậy, hai mẹ con tôi háo hức lên
đường. Tám giờ sáng, chúng tôi đã
đến cổng Đền. Cuối tháng hai, chuẩn
bị cho Hội đã thấy nhiều hàng quán dựng
lên hai ven đường. Mấy đứa trẻ
bán hương nhao nhao gặp tôi mời mua hương.
Tôi gọi một đứa bé nhất trong bọn
mua chục thẻ hương và hỏi nó:
- Từ sáng đến giờ có ai lên đền
chưa cháu?
Nó nhanh nhảu đáp:
- Dạ. Có rồi ạ. Một chú thương
binh cụt chân chống nạng lên được
một lúc lâu rồi ạ. Chú ấy đi có vẻ
khó nhọc lắm. Mấy bạn lớp cháu phải
dìu chú ấy đấy.
Tôi giật mình thoáng nghĩ: Hay là Tuấn? Có phải
anh không đấy? Sao anh lại đi một mình?
Đứa bé còn nói thêm là năm ngoái, năm kia
năm nào cũng thế, chú ấy đều
đi đền sớm nhất. Chú ấy bảo:
đi sớm cho khỏi phải chen người, chứ
nếu đi chính Hội thì chú có một chân làm
sao mà chen nổi.
Tôi đưa Thảo vào thắp hương từng
đền một. Con bé ngơ ngẩn trước
cảnh vạn nhiên hùng vĩ và uy nghi nơi đây.
Do buổi sớm và chưa phải là ngày chính Hội
nên khách thăm chỉ rải rác ít người.
Chúng tôi có điều kiện thong thả ngắm
cảnh. Thắp hương xong, như một thói
quen định sẵn, tôi dắt Thảo tìm đến
cây vạn tuế. Khi cách gốc cây vạn tuế
chừng mươi mét, tôi thấy một đám
trẻ bán hương đang xúm xít quanh một người
nghe kể chuyện. Tôi ra hiệu cho Thảo im lặng
lại gần. Trước mắt tôi đúng là Tuấn.
Mắt tôi nhoà đi. Chân tôi như chết cứng
tại chỗ. Không ngờ lại gặp anh ở
đây. Tôi lặng yên nghe Tuấn đang kể
chuyện cho lũ trẻ. Tuấn say sưa kể lại
những kỷ niệm của mình dưới gốc
cây vạn tuế này và những trận đánh
quân xâm lấn, bảo vệ biên cương Tổ
quốc. Gương mặt Tuấn rạng rỡ.
Có lẽ Tuấn rất vui khi nhớ về những
năm tháng oanh liệt đó. Mấy đứa trẻ
tròn xoe mắt ngồi nghe quên cả việc bán hương.
Dáng chừng đợi mẹ lâu quá, Thảo lắc
mạnh tay tôi:
- Mẹ! Chúng mình xuống thăm Đền Giếng
chứ?
Tôi choàng tỉnh. Cả mấy chú cháu phía Tuấn
cũng đột ngột quay lại. Tuấn nhận
ra tôi. Không kìm được lòng mình nữa, tôi
lao về phía Tuấn. Lũ trẻ ngơ ngác. Một
cơn gió bất ngờ thổi đến. Tán lá
trên ngọn cây vạn tuế rì rào. Mãi sau, Tuấn
mới lúng túng gỡ tay tôi. Sau khi chúng tôi giới
thiệu nhau cho bọn trẻ, tất cả cùng cười
vui. Thì ra năm nào cũng vậy, Tuấn đều
trốn trại điều đưỡng để
về với Hội. Bọn trẻ ở đây
đã quen anh. Với anh, cây vạn tuế này là kỷ
niệm vạn liêng của cuộc đời.
Xuân Thu