Chiếc xe vừa thắng lại, tiếng đẩy
cửa sắt cót két, xe chầm chậm chạy
vào độ khoảng 10 mét rồi dừng hẳn.
Tiếng ổ khoá khua lanh canh, hai cánh cửa sau
được mở toang, một luồng gió lùa
vào. Tôi sảng khoái. Tên lính nguỵ khom người
xuống đẩy chiếc băng ca, bốn chân sắt
chạm dưới lườn tạo một âm
thanh rờn rợn. Những tia nắng ban mai chiếu
lấp loá, tôi choá mắt đành nhắm lại...
- Thưa bác sĩ, đây là tên Việt cộng
bị ta bắt trong trận càn quét vào mật khu
Ngãi Tứ. Nó rất gan lì, đã bị thương
còn cố bắn chặn cho đồng đội
thoát, làm bên ta chết thêm 10 người. Khi hết
đạn, nó mới chịu thúc thủ.
Tên lính nói một hơi dài như muốn phô trương
vẻ yêng hùng của bọn chúng, rồi
đưa tay vào túi áo lấy tấm giấy chuyển
bệnh ra trình.
Vị bác sĩ thản nhiên cầm lấy chuyển
qua cô y tá. Chân tôi được ông ta nghiêng qua
xem xét. Tên lính có vẻ bực tức, mặt nhăn
nhúm trông khó coi.
- Cô cắt hết băng nơi chân chú ấy ra
- Ông bảo cô y tá.
Mũi kéo lành lạnh chạy dọc theo xương
ống quyển. Tôi cố ngồi lên. Mảnh băng
vừa bung ra. Thân tôi nhột nhạt, khó chịu
còn hơn bị những cực hình nơi địa
ngục. Bởi những con dòi từ trong vết thương,
chúng nhung nhúc chui lên bò quanh vùng da thịt lở
lói. Cô y tá rửa sạch vết thương. Vị
bác sĩ nhìn vào, rồi ngẩng lên nói với
tên lính:
- Sao các anh để đến nông nỗi này?
- Nó là Việt cộng - Tên lính đáp cộc lốc.
- Anh nên nhã nhặn một chút. Dù là gì đi nữa
nhưng đến đây, tôi xem anh ta là một bệnh
nhân.
Lời bác sĩ như trăm nghìn mũi kim xuyên
vào não làm mặt tên lính co rúm lại, trông thảm
hại. Tôi cố nén sự khoái cảm trong lòng...
Đang thay băng, giọng cô y tá chợt xa vắng:
- Vết thương của anh hôm nay sắp bình
phục. Hình như vài hôm nữa bên an ninh quân
đội, họ qua nhận anh về.
Tim tôi co thắt. Có hơn nửa tháng nằm
đây, tôi bị cuốn hút vào đôi mắt hiền
từ cùng nụ cười của cô. Điều
đó dễ dàng làm tôi quên đi nỗi đau của
người chiến sĩ bị thương sa vào
tay giặc. Giờ sắp xa cô, làm sao tôi không buồn.
Biết cô có buồn như tôi không?
Trăng thượng tuần lên cao lấp loáng
ngoài vuông sân bệnh viện như trải nhẹ
qua hồn tôi chút gam màu quê hương. Đêm yên
ắng, chỉ còn tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng
rên khe khẽ của bệnh nhân. Có tiếng chân bước
vào phòng, tôi chống tay ngồi dậy. Cô y tá
đã đến bên đầu giường, thấy
tôi định hỏi, cô vội đưa ngón tay
lên môi ra hiệu. Cử chỉ lạ lùng của
cô làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Chắc
có việc gì đây? Chưa chi cô xoay người
lại, đi ra. Tôi lo lắng. Định tâm lại,
tôi mở nhanh gói giấy mà cô vừa để
nơi đầu giường. Bên trong là một miếng
thép không gỉ nhỏ dẹt, một mảnh giấy
được xếp lại rất nhỏ, một
bộ đồ được ủi thẳng
tươm tất. Dưới ánh sáng lờ mờ
của bóng đèn tròn, tôi đọc nhanh những
dòng chữ viết vội trên mảnh giấy. Rồi
hành động...
Trong bệnh viện đã có người vào ra,
sự sinh hoạt ngoài cổng được đánh
thức. Tôi ung dung thả từng bước
như người đi nuôi bệnh. Cố chịu
cơn nhức, tôi bước nhanh. Vừa quăng
cái còng vào lỗ cống, nghe tiếng xe máy dừng
lại ở phía trước, tôi giật mình. Cô y
tá giục: "Nhanh lên...". Tôi ngồi phắt
lên cái ba ga phía sau. Cô tăng ga, chiếc xe vun vút
qua những con đường vắng tanh. Chân tôi
buốt nhức vì dằn sóc, hai tay quờ quạng
tìm chỗ bấu. Có lẽ cô hiểu, nên nói to
lên trong gió: "Anh ôm chặt vào người
em...". Đến ngã ba Cần Thơ, cô điều
xe lao nhanh qua. Tôi chồm người về phía trước:
"Sao cô không ghé ở ngã ba dễ đón xe hơn?".
"Anh không thấy đồn cảnh sát ở
đó à!".
Cô cho xe dừng lại trên một đoạn
đường vắng. Một chiếc xe Hồng
thập tự cùng vừa trờ tới. Cô tiến
đến bên ca bin dặn dò điều gì đó
với anh tài xế, rồi quay lại. Tôi chưa
kịp nói lời từ biệt, bỗng cô nắm
chặt bàn tay tôi, giọng nồng nàn trầm
ấm: "Chúc anh gặp nhiều may mắn".
Qua khung cửa, qua ánh đèn phía sau, tôi thấy
cô vẫn còn đứng bên vệ đường
trông theo. Lòng tôi tê tái.
Bàn chân tôi đã đi khắp phố phường
Sài Gòn nhưng không một nơi nào nhận tôi
vào làm. Họ dửng dưng trước những
lời xin việc, mặc dầu tôi chỉ cần
hai bữa cơm thôi. Tôi thầm nghĩ, cùng là con
người với nhau, sao họ không có tình thương
nhân loại như những người ở quê
tôi. Hay họ sợ tôi điều gì? Cuối cùng
tiền cô cho tôi cũng hết, cái đói lại
cồn cào trong bụng. Đang lang thang, chợt một
thanh niên hai chân cụt tới gối ngồi trên
chiếc xe lăn bên hè phố ngoắc tôi lại,
có lẽ anh ta thấy tôi đi khập khiễng.
- Mày là thương phế binh hả?
Tôi đáp liều:
- ừ!
- Mày vào hội chưa?
Tôi nào biết hội gì? Cũng đáp liều:
- Chưa.
- Thôi mày theo tao mà sống, tao sẽ giúp...
Như kẻ chết đuối vớ được
cái phao, còn gì bằng! Tôi theo anh ta. Nhà anh nằm
ngoài mặt tiền trên đường Khổng Tử.
Anh ta nói vẻ tự hào: "Đây là khu thương
phế binh do bọn tao tự chiếm, rồi cất,
chứ chẳng có con "ma" nào cấp. Mày thấy
có oách không? Tôi ngồi yên lặng lắng nghe. Anh
ta "đế" luôn: "Bọn tao ở đây
tự do ăn, tự do nói, tự do chửi,
đ.sợ thằng chánh quyền...". Bỗng giọng
anh chùn xuống: "Vậy mà con vợ tao, nó
đành đoạn bỏ đi lấy Mỹ...!".
Mỗi sáng, tôi đẩy anh đi góp tiền chỗ
ngoài chợ Cầu Muối, nơi bọn họ
độc quyền. Đổi lại, tôi cũng có
ít tiền tiêu vặt cùng hai bữa cơm và không
biết bằng cách nào anh ta làm được một
thẻ thương phế binh, một giấy chứng
chỉ giải ngũ cho tôi. Giờ tôi là một
công dân hợp pháp sống trong ngôi nhà của anh.
Vậy mà tôi chưa tìm bắt được liên
lạc để quay về với đơn vị.
Không lẽ phải sống mãi thế này sao? Tôi
nghe nhịp tim gõ buồn, lại nhớ những
ân tình chan chứa ẩn trong đôi mắt của
cô y tá mà mấy lâu vẫn còn xốn xang trong lòng
tôi...
Tiếng súng nổ ròn tan khắp đường
phố, mọi người ngờ bọn lính nguỵ
dùng súng thay pháo đón giao thừa. Ngoài đường,
tiếng động cơ rú ga đinh tai nhức
óc hoà cùng tiếng đạn bom ì ầm. Lửa
trong tim như được nhen lên, lòng tôi xôn
xao. Trong nhà, giọng say rượu lè nhè của
anh ta vọng ra: "Sao mày không vô, Việt cộng
đến chúng giết hết cả lũ!". Tôi
cười thầm... Tiếng chân rầm rộ của
đoàn quân giải phóng đang băng qua lộ. Tôi
vội vã chạy theo. Vài anh bộ đội
chĩa súng bắn vào tôi, chặn lại. Tôi vén
ống quần lên chỉ vào vết thương, tỏ
rõ nhanh chóng cảnh tình. Vị chỉ huy tiến lại
nhìn tôi phân vân...
***
Ông tiểu đoàn trưởng ngồi xuống
bên tôi, giọng từ tốn:
- Cuộc họp Chi bộ chiều qua, ban lãnh
đạo nhất trí cho chú nằm an dưỡng,
đây là nơi an toàn. Tôi định phân trần.
Hình như ông hiểu ý, vội tiếp:
- Trên chiến trường cũng như trong lao
động, chúng ta cần có sức khoẻ. Vì thế,
chú cứ an tâm.
Tôi yên lặng, thở dài.
Khi phần lý lịch của tôi được
đơn vị gởi ra, vết thương
nơi chân chưa được lành hẳn. Tôi
được điều về công tác ở
địa phương Bình Long.
Thoắt đó, đã 7 năm. Giờ tôi là một
thanh niên ở tuổi 27 tràn đầy sức sống
và dày dạn trong chiến đấu. Những tin
chiến thắng từ mặt trận trên khắp
các miền đất nước giòn giã bay về.
Rồi cuộc chiến đến hồi kết thúc.
Trong ánh nắng chói chang của một ngày cuối
tháng tư, tôi lại tìm cô. Hơn một tiếng
đồng hồ vòng quanh hết các phòng, các trại
trong bệnh viện Vĩnh Long, hỏi thăm, không
ai biết được về cô. Tôi liền tìm
đến vị bác sĩ, nhưng ông đã về
hưu và cũng không ai biết rõ hiện giờ
ông ở nơi đâu? Tôi thất vọng.
Hơn hai năm phục viên về quê nhà, lòng
tôi lúc nào cũng khao khát gặp lại cô y tá,
lúc nào cũng mải miết kiếm tìm, nhưng
tin tức về cô như phiến mây gầy bay
ngang giữa chiều. May sao có một hôm người
bạn rủ tôi đi tìm cô vì cô chính là nhân vật
mà anh cần gặp để viết bài. Đi
quanh co khắp mấy thôn rồi, chúng tôi cũng gặp
được một bác nông dân cho hay:
- Trước đây, cô ấy đang đi thực
tập ngành gì đó, tôi không được rõ lắm.
Không biết vì sao cô bị địch bắt rồi
buộc tội làm Việt cộng. Nghe đâu bọn
chúng dùng đủ mọi cách tra tấn, cô kiên
quyết không nhận. Chúng mới đày cô ra Côn
Đảo. Tại đây, cô tham gia vào phong trào,
đấu tranh chống chào cờ ba que, vận
động chị em đòi hỏi cải thiện
chế độ đối với nữ tù nhân
nên bị chúng nhốt vào chuồng cọp...
Rồi bác còn kể tiếp:
- Hoàn cảnh cô ấy rất đáng thương.
Lúc ở Côn Đảo về, cha mẹ đều
qua đời, cô là con một nên phải ở nhà
lo hương khói. Cô chỉ nhận công tác phụ
nữ ở địa phương để có thời
gian rảnh rỗi chăm sóc ruộng vườn.
Còn việc chồng con, tôi già cả ít đi đâu,
nên không được biết.
Ngôi nhà cô nằm khuất sau khu vườn toàn
cây tạp trong một ấp thuộc xã Tích Thiện,
phía trước là dòng sông Hậu xuôi về Cần
Thơ. Trong nhà vắng lặng, chúng tôi ra đứng
ngắm những bông hoa đang khoe sắc trong ánh nắng
heo hắt giữa chiều tà.
- Cô chủ nhà ơi...! Cô chủ nhà ơi...!
Độ hơn phút, một phụ nữ khoảng
gần 30 tuổi trong bộ bà ba đen vừa ra vừa
tháo cái khăn rằn quấn nơi cổ lau lau
hai tay, rồi hỏi:
- Hai anh tìm nhà ai vậy?
- Thưa cô... có phải đây là nhà cô Thanh...?
Tôi bỗng reo lên. Thôi, đúng là em rồi! Tiếng
reo của tôi quá to làm cô giật mình, sửng sốt
nhìn tôi chăm chú hồi lâu:
- Anh... là... anh Thới. Lê Minh Thới phải
không? - Tiếng cô lập bập.
Tôi gật gật đầu rồi tiến lại.
Bỗng có tiếng xe tắt máy ngoài rào, một người
thanh niên dẫn chiếc Honda 67 đi vào nhìn hai
đứa tôi rồi gật đầu chào. Cô lên
tiếng giới thiệu:
- Đây là ông xã nhà em, anh Thới còn nhớ
ảnh hông?
Như bị cú sốc, tôi đứng tần ngần.
Có lẽ hiểu được tâm trạng tôi,
cô nhắc với giọng lắng buồn:
- Ông xã em chính là người lái chiếc xe Hồng
thập tự trong đêm đưa anh đi thoát
đó... Chúng em mới cưới nhau...
Anh tiến lại, bắt tay tôi niềm nở.
Đâu đây tiếng chim vót giọng gọi mùa.
Vương Sĩ Ca