Nhà chị ở sát chân núi, mặt trông ra cánh
đồng đất thoai thoải nghiêng về con
sông Cạn nhỏ. Con sông này mùa mưa nước
dềnh lên tận mép thửa đất nhà chị
với những đám lục bình nở hoa tím
ngát suốt dọc một triền sông. Con sông
đã tắm mát cả tuổi thơ chị
cũng là nơi vẫy vùng bơi giỡn của
hai đứa con mình. Cạnh con đường
trước nhà chỗ rẽ xuống bờ sông,
có trồng cây mai mà trước đây chồng chị
đã bứng từ trên núi xuống. Đó là một
cây huyết mai. Anh Đẩu là người
chơi mai vào loại sành nhất trong vùng. Lối
đi xuống bờ sông mỗi năm vài gốc,
anh bứng trồng thành hai hàng mi. Năm đầu
tiên cây mai trổ ra bông đỏ, chồng chị
mừng rú lên gọi cả nhà và cả xóm núi
đến xem. Ai cũng trầm trồ và khen cây
mai quý. Da ngoài cây mai cũng bình thường duy có
nhiều vân khoang lốm đốm và rõ hơn những
cây mai vàng khác. Còn hoa của nó tuy nhỏ hơn
mai vàng một chút nhưng lại có đến tám
cánh, cánh nào cánh nấy mỏng và đỏ thắm
cái màu của huyết tươi. Sau khi biết mình
tình cờ vớ được cây mai quý, anh Đẩu
chặt tất cả các cây khác chỉ chừa lại
mình nó để tập trung uốn cành, chăm sóc.
Năm nào, Tết nào chồng chị cũng canh lặt
lá cho mai nở đúng vào giao thừa, mồng một
Tết. Và năm nào cũng chính tự tay anh lặt,
con cái và ngay cả chị cấm có được
rớ tới. Mấy ngày trước đó, bao giờ
anh Đẩu cũng chọn cưa một cành thật
đẹp chưng gọn trên bàn thờ ông bà.Chiến
tranh ập đến. Xóm núi, mà bây giờ người
ta gọi là xóm Huyết Mai trở thành vùng
"xôi đậu", ngày địch đêm ta.
Cây huyết mai nở trước nhà vừa
được ba mùa hoa thì anh Đẩu thoát ly ra
rừng. Anh thoát ly nhưng không đi xa, chỉ vào
bộ đội địa phương quẩn
quanh trong vùng, bỏ lại chị cùng hai đứa
con mới lên mười tuổi.
Bên góc núi, lặn lội với dòng sông, cặm
cụi với rẻo đất cạnh cội huyết
mai già chị vừa nuôi con, vừa dành dụm
để tiếp tế cho chồng. Để cứ
mỗi năm tháng Chạp về, ba mẹ con lại
xúm xít bên gốc mai lặt lá nụ còn nụ mất.
Rồi chị lại có mang bởi một đêm
tháng Chạp anh Đẩu tạt qua nhà, lặt lá
huyết mai. Cảnh đá khó, thêm cái thai lại
càng khó. Nhưng khó nhất là nó đã đưa
chị đến phòng thẩm vấn của cảnh
sát để trực diện với những câu hỏi:
Chị có thai với ai? Có gặp và tiếp tế
cho chồng mình không? Chị lại là người
không quen và cũng chẳng muốn nói dối trong
việc này. Còn ra gì người phụ nữ chồng
đi làm cách mạng, vợ lại ở nhà ngoại
tình. Chị không muốn xóm làng nhìn mình bằng
con mắt như thế. Vậy là chị... ở
tù! ở tù mãi cho đến ngày sắp sinh thì
chúng thả chị ra. Trong suốt mấy tháng trong
tù và khi sinh nở may mà có mẹ chị trông nom,
nuôi nấng...Hoạ vô đơn chí, khi đứa
con gái sinh sau - bé Mai - chưa kịp bỏ bú thì
hai thằng anh sức vừa cầm nổi cây súng
lại thoát ly theo cha. Hai đứa thoát ly cùng một
lúc nhưng không hề báo trước cho chị lấy
nửa lời.
Chị lại bị cảnh sát mời.
Chúng đưa chị sang quận rồi xuống
cảnh sát tỉnh. Đầu ai chí nấy, dù vậy
chị cũng không thoát khỏi tội tày đình
là để con theo Cộng sản. Sau đó chúng
giam chị. Đêm đầu tiên ngủ xa con, hai bầu
vú chị căng tức và buốt đến phát
sốt lên. Chị biết là giờ này con đang
mút vú da bà ngoại và khóc đến rã họng.
Hai tháng sau, buổi sáng chị được gọi
lên gặp một bà cảnh sát. Bà này mời nước
chị rồi tự giới thiệu: "Tôi là
Phó trưởng ty Cảnh sát. Tôi muốn nhờ
chị một việc, chẳng biết chị có sẵn
lòng giúp không?" Một nữ tù như chị lại
có thể giúp cho một bà Phó trưởng ty Cảnh
sát ư? Như hiểu được thắc mắc
của chị, bà Phó ty dịu dàng: "Việc...
tôi nhờ chị như thế này. Chẳng là tôi
vừa sinh một cháu nhỏ cách đây mấy
tháng và hiện đang bị mất sữa trầm
trọng. Tôi muốn nhờ chị... về bú mớm
cho cháu, thay vì... ở trong tù. Là mẹ lại
đang tức sữa, chắc chị cũng dễ
dàng thông cảm và sẵn lòng giúp tôi?". Lời
đề nghị hợp lúc ấy như một giải
pháp tình thế tức thời cho hai bầu vú căng
ran mấy ngày nay của chị. Chị nhận lời.
Sau đó chị được đích thân bà
Phó ty này đưa về nhà và đối xử
khá tử tế. So với phòng giam chật hẹp
nóng bức và hôi thối thì tiện nghi nơi nhà
bà Phó ty dù chị có nằm mơ cũng không dễ
gì thấy được. Bà đưa về một
người, áng chứng là bác sĩ khám bệnh,
thử máu cho chị. Và rồi chính thức chị
được bú mớm, nuôi nấng con bà ta.
Từ người tù chuyển sang vú nuôi, thoạt
đầu có vẻ dễ chịu nhưng không lâu
sau chị bỗng giật mình. Cứ điệu này
chị sẽ còn ở... tù rất lâu, chí ít cũng
mãi đến khi nào đứa bé con của bà Phó
ty chán bú mới thôi. Khi nhận ra điều này,
chị than thầm mà lại nhớ con mình da diết.
Cứ mỗi lần nhìn miệng thằng con bà
Phó ty bú dưới ngực, chị lại nhớ
đến bé Mai. Chẳng biết bà ngoại ở
nhà sẽ xoay sở ra sao khi bé Mai khát sữa. Nhớ
thương con giờ chị chỉ còn biết dồn
hết tình cảm của mình cho đứa bé bú
thép, con của một trong những người
đã bắt chị. Và cũng thật là lạ kỳ,
qua thời gian bú mớm quen hơi, có nhiều lúc
chị cứ tưởng thằng bé này là con của
chính mình. Đối lại, qua miệng bú tay vê
và ánh mắt thơ ngây nhìn lên chị biết rằng
nó cũng xem chị như là mẹ của nó.
Thu tàn rồi đông chí. Thời gian này chị
được bà Phó ty tín cẩn, ngoài việc bú
mớm chăm sóc thằng bé, chị còn kiêm thêm
những việc lặt vặt khác trong nhà kể cả
đi chợ.
Một hôm nhân đi mua thuốc viêm phế quản
cho con bà Phó ty. Đường đến hiệu
thuốc phải xuyên qua nơi những người
bán mai bên chợ Tết. Lượt về bỗng
giữa bạt ngàn mai vàng, một nhành huyết mai
đỏ loè chợt đập vào mắt chị.
Chị chớp mi mấy lần như không tin vào mắt
mình. Bà già đầu tóc bạc phơ vịn nhành
mai đang đứng bán không ngờ là mẹ chị.
Chị ào đến.
- Mẹ...! Chị nghẹn ngào - Sao mẹ lại...
đến nông nỗi này?
Mẹ chị thật sự ngỡ ngàng, bíu tay
chị làm cành huyết mai lảo đảo rung
rinh.
- Ôi... Con! Con ra tù hồi nào...?
Chị ứa nước mắt lắc đầu:
- Bé Mai ra sao? Nó có khoẻ không, hở mẹ?
Đến lượt nước lại ứa
ra trong đôi mắt đùng đục màu cùi nhãn
của mẹ chị:
- Bé Mai... đã mất cách đây... một tháng
rồi, con à!
- Trời...!
Chị kêu lên và đổ khuỵu xuống làm
nhành mai đổ theo.
- Trời ơi...! Làm sao... mà chết? Sao mà mẹ
chẳng cho con hay? Chị hỏi trong hai hàng nước
mắt chảy dài.
- Nó khát sữa khóc ngằn ngặt đêm này
sang tháng khác, còm cõi dần rồi "ra
đi". Thương cháu đến đứt ruột
mà tao cũng hết cách. Còn nhắn cho con thì... mẹ
đâu rành, biết họ giam con ở quận nào,
tỉnh nào khi một đồng một chữ
trong lưng cũng chẳng có...!
Trời ơi! Thảo nào đêm qua, đêm kia,
hai đêm liền chị mơ thấy nó.
Mẹ chị ngậm ngùi:
- Gần Tết nghe người ta nói mai bán cũng
có tiền, mẹ đánh liều chặt một
cành huyết mai vác bộ xuống đây bán để
lấy tiền thăm nuôi con. Nhưng chờ mãi từ
sớm đến giờ chưa thấy ai ngó ngàng
chi cả.
Sau đó sợ mua thuốc trễ, chị vét
túi được mấy chục dành dụm từ
tiền ăn sáng cho có sữa đưa và chia tay
mẹ, vác nhành huyết mai về nhà bà Phó ty. Có
nó chắc chắn sẽ ấm lòng chị hơn
trong cái Tết làm thân vú nuôi, tù tội. Nhìn nó chị
sẽ tưởng như đang ở nhà mình nơi
góc núi với chồng, với con.
Giao thừa Tết năm đó, nhành huyết mai
của chị được chồng bà Phó ty, một
thiếu tá gì đó bên thám báo, chưng giữa phòng
khách. Ông này xem ra sành và yêu mai cũng không thua anh
Đẩu chồng chị là mấy. Chị tự
hào kể với ông ta cây huyết mai trước
nhà và sự yêu quý của chồng mình về chăm
sóc cũng như tự tay lặt lá cho nó vào mỗi
lúc sắp xuân sang...
Nhưng thật là xui cho tự hào kể lể của
chị, sáng mồng một Tết chẳng hiểu
sao tất cả những nụ mai đồng loạt
rũ xuống, trông như muôn ngàn giọt lệ
ứa máu đang rơi giữa phòng khách đầu
năm. Chồng bà phó ty lập tức thay vào nhành
mai vàng dự bị khác và nhìn chị với vẻ
mặt chằm hằm.
Mãi rồi, cũng đến ngày thằng bé con
bà Phó ty không cần tới hai bầu vú nữa. Chị
được ra tù và mùa đông lại đến
với cái lạnh cắt da nơi góc núi. Mỗi
khi sắp đến ngày đông về, sương
từ dưới lòng sông dâng lên và từ hốc
núi tràn xuống vây căn nhà nhỏ bé, co ro của
chị ngập tràn trong mịt mù, trắng xoá.
Một đêm trung tuần tháng Chạp, nửa
khuya chị thức giấc đi tiểu thì thấy
thấp thoáng bóng người như bơi trong
sương mù dưới cội huyết mai. Tưởng
có kẻ cưa chặt trộm, chị vội
đến gần lại hoá ra là anh Đẩu chồng
chị. Dưới trăng mờ sương giá
anh đang mò mẫm lặt từng chiếc lá mai.
Chị giậm chân, khẽ khàng trách:
- Trời đất! Về sao không vô nhà, mà lại...?
- Anh vội quá nên chỉ kịp tranh thủ tạt
ngang, lặt lá mai cho nở kịp Tết rồi
đi ngay. Em ở nhà có khoẻ không? Anh nói mà mắt
vẫn không rời những lá huyết mai.
Và sau khi lặt lá xong, anh chỉ kịp ôm hôn từ
giã chị ngay bên cội huyết mai, không cả
vào thăm nhà.
Xong Tết ấy chị lại bị bắt vì
thằng bé con bà Phó ty ốm đang cần người
trông nom, tất nhiên với một lý do là chị
liên lạc cùng chồng. Chị lại tích cực
nuôi nấng, chăm sóc thằng bé để sớm
được về nơi góc núi của mình, khi
nó đã khoẻ mạnh, ăn chơi.
Rồi lại mùa đông. Vào một đêm trung
tuần tháng Chạp đầy sương mù giá
núi, nửa khuya bỗng vang vào những tràng súng nổ
liên hồi ngoài cội huyết mai già. Sực nhớ
đến thói quen lặt lá mai của chồng, chị
ôm mền khóc thầm, van vái trời phật sao cho
không có anh ngoài ấy.
Mờ sáng ra, bên gốc mai lả tả lá xanh lặt
dở, trên mặt đất còn lẩn khuất sương
mù là vũng máu anh vương vấn, thấm
đỏ. Chúng đã bắn chồng chị và
lôi xác về phơi ở chợ làng cách đó hơn
cây số. Hai ngày sau mới cho chị nhận về
chôn cất.
Tết năm đó, một cái Tết buồn thảm
nhất đời chị, huyết mai ra bông chỉ
có nửa cây. Tuy nửa cây nhưng bông nào bông nấy
to và thắm đỏ một cách lạ lùng, cứ
như thể máu chồng chị tuôn dưới gốc
rồi giờ nở lên hoa vậy. Nửa còn lại
hơn 3 tháng sau, đúng giỗ trăm ngày của
anh nó lại lác đác ra hoa.
Còn sống tuy chẳng ở bên chị nhưng
anh chết đi xóm núi và căn nhà bỗng dưng
hiu hắt hẳn. Nếu không còn hai đứa
trong kia và cây huyết mai anh để lại chắc
chị chẳng cần thiết phải sống làm
gì. Chị sống giờ là để tiếp tế
và chờ đến ngày nào đó hoà bình gặp
lại các con. Tiếp tế, với tội danh này
chúng có thể bắt chị bất cứ lúc nào,
bởi ai làm mẹ mà chẳng thương con. Chị
không thèm chối cái tội xuất phát từ lòng
mẹ đó. Ngoại trừ những lần ở
tù hờ khi con bà Phó ty vong mình sứt mẩy, mỗi
năm để cấm vận "kinh tế"
chị, để chị không còn chi tiếp tế
cho con, cứ đến lúc cần làm ăn, mùa
màng là chúng lại bắt chị. Bắt để
hỏi cung vớ vẩn và nhốt cho đến
khi mùa vụ thu hoạch xong đâu đó, chúng lại
thả chị ra. Lúc ấy thường là vào mùa
đông hay gần Tết.
Riêng cây huyết mai năm nào chị cũng lặt
lá từ rất sớm, khi mùa đông bắt đầu
có sương mù tràn từ hốc núi xuống, triền
sông lên vào mỗi buổi chiều. Chị làm vậy
để hai thằng con yên tâm không mò về lặt
lá như ba nó trước đây. Tuy lặt sớm
như thế nhưng năm nào cây huyết mai cũng
nở đúng vào đêm giao thừa hoặc sáng mồng
một Tết, cứ như là có máu mủ, linh hồn
chồng chị nhập vào kiềm giữ giờ
giấc nở hoa cho nó vậy! Và nó, cây huyết
mai năm nào cũng giúp chị có được
ít tiền để mua chút đỉnh cúng chồng
và lo cho được ba bữa Tết đơn
sơ. Một mình chị chẳng cần gì nhưng
nhỡ vào đêm Tết nào đó, hai thằng con
có đứa chợt ghé qua nhà thì sao? Lấy gì
cho nó? Do vậy những hôm thị xã có chợ Tết,
chị thường chọn cưa một vài cành
huyết mai vác bộ xuống bán. Như
thương và hiểu chị, mùa mưa nào cây huyết
mai cũng đều vặn mình ra lộc cành lá
nhánh sum xuê để tới cuối Chạp dư
sức cho chị cưa chặt vài cành, đem bán
khi Tết đến xuân về. Vài cành hoặc có
khi chỉ một thôi cũng đủ bởi huyết
mai là loại quý hiếm và thường đắt
gấp hai, ba lần mai vàng.
Tết năm nay thì lại khác. Chị bị
ở tù vì người giúp việc cho bà Phó ty về
ăn Tết hay thôi làm gì đấy. Những
tưởng đây là Tết đầu tiên mình
không thấy huyết mai với những cánh màu
đỏ quen thuộc thì dùng cái chiều hăm sáu
Tết có chiếc xe Zeep chở về một gốc
mai to đùng. Lúc mấy thằng cảnh sát lôi xuống
chị mới rụng rời khi thấy đó là
cây huyết mai trước nhà mình, do chồng chị
trồng. Cây mai được cưa hầu như
là tận gốc! Dù không dám đến gần
nhưng chị cũng biết được qua những
vết sẹo cưa cành từ các Tết trước
và mấy chỗ gãy trong đợt lặt lá tháng
Chạp vừa rồi. Cây mai đó là hoá thân của
chồng chị. Mấy ngày gần Tết chị
như thảng như thốt khi thấy gốc huyết
mai chôn chân trong cái choé lớn đứng trầm
tư, im lìm nơi phòng khách. Mấy lần bé
Hoàng - con bà Phó ty - níu tay đòi vào xem huyết mai
nhưng chị đều giữ nó lại. Có nỗi
buồn nào đó giống như cái chết lần
nữa của anh héo hon trong chị. Sự héo hon
đến xa xót, cồn cào.Cách chơi, thưởng
mai thô bạo, cạn tàu ráo máng của tên thiếu
tá khiến lòng dạ chị như đông cứng
lại, đông cứng đến nghẹn thở.
Đúng giao thừa, một lần nữa cây huyết
mai bằng muôn nghìn búp đỏ của mình lại
rũ rơi hằng hà sa số những giọt lệ
màu máu ra đầy tấm thảm trong phòng khách.
Tên thiếu tá vừa hò hét bọn tay chân khuân dọn
vừa làu bàu: "Mùa mưa này tao lệnh bứng
về luôn gốc, thử xem mày có còn rụng nữa
không!". Phần chị dọn lượm những
búp hoa bằng đôi tay như bưng chính giọt
lệ của mình. Bé Hoàng thì tỏ ra vô cùng thích
quý những búp hoa mang màu máu ấy. Nó lựa những
búp to nhất và bỏ lèn vào đầy các túi áo
quần.
Cũng may cho chị là chưa kịp đến
mùa mưa. Và một ngày tháng tư, lẫn trong tiếng
súng ầm oàng vọng vào và phi cơ gầm rú như
xé trời thị xã, vợ chồng tên thiếu
tá về sớm hơn thường ngày. Cả hai
hấp tấp thu vén vàng bạc tư trong trong sự
ngơ ngác của chị và bé Hoàng. Trước lúc
lên xe, bà Phó ty nói với chị:
- Bây giờ thì chị được tự do rồi,
muốn đi đâu tuỳ chị.
Chị ngỡ ngàng và không hiểu ra sao cả.
Bé Hoàng hoảng hốt:
- Bé Hoàng cũng đi với vú!
Tên thiếu tá quát:
- Không được! Lên xe ngay, không còn thì giờ!
- Vậy bố phải cho vú cùng đi với bé
Hoàng nữa cơ. Nó ôm chặt lấy tay chị.
Tên thiếu tá nhảy phắt xuống xe, rút
ngay súng lục đeo hông và lôi lấy nó:
- Tao không bắn nó một phát trước mặt
mày là may, lại còn muốn cho theo hả? Lên xe
ngay!
Bé Hoàng nước mắt lưng tròng chới với
về phía chị theo cái lôi sềnh sệch lui dần
vào xe của ba nó.
Chị chia tay với đứa bé không sinh mà có
dưỡng trong hoàn ảnh như vậy.
Bây giờ thì chị đã tóc bạc hoa râm và
không có gì ngoài cội huyết mai già. Cây huyết
mai tên thiếu tá chặt thành đoạn khi nào
nay nảy ra năm gốc giờ đã thành cổ
thụ, cành lá sum xuê.
Nhớ lại ngày tháng tư năm ấy trong bát
loạn tiếng súng và ngơ ngác trước sự
đổi đời, chị về thì cũng vừa
nhận được tin hai người con trai
đã mất. Một đứa mất đâu trước
đó chừng hai tháng trên Buôn Mê Thuột, và
đứa sau vào đúng cái ngày bà Phó ty nói chị
được tự do. Nơi di vật của thằng
anh hy sinh sau có một lá thư viết cho chị
nhưng chẳng hiểu sao vẫn chưa gửi
được. Trong ấy có đoạn nói về
cây huyết mai già: "... Con xuống núi lần
này hy vọng sẽ có dịp cùng mẹ lặt lá
huyết mai vào tháng Chạp như xưa, để
tưởng nhớ ba đã không bao giờ về với
mẹ con mình nữa...".
Bây giờ người có thể gọi là thân
thích với chị còn lại trên cõi đời này
là bé Hoàng, hiện định cư ở Mỹ. Dù
năm nay đã trên 30 tuổi nhưng trong thư nó
vẫn còn xưng "Bé Hoàng" với chị như
xưa. Hoàng cho biết khi di tản qua Mỹ, chỉ
ít lâu sau mẹ nó phải lòng và theo một người
Mỹ da đen. Ba nó buồn uống rượu và
chết trong một tai nạn giao thông trên
đường cao tốc. Nó hiện thời bơ
vơ nơi xứ lạ quê người. Nhắc về
cây huyết mai già, thư nó có đoạn viết:
"... Mãi đến bây giờ, hơn hai
mươi năm lang thang bơ vơ trên đất
Mỹ, bé Hoàng mới hiểu thế nào là mai ngày
Tết, nhất là cội huyết mai già như vú
kể năm xưa. Bé Hoàng nhớ vú vô cùng! Nếu
thư này đến táy và vú còn, Tết này bé sẽ
về để ngược ngồi cùng vú bên cội
huyết mai già như lời kể năm nào. Và
Bé Hoàng xin được cùng ở mãi mãi bên
vú...".
Sương buổi chiều tháng Chạp từ hốc
núi, dưới triền sông dâng ra bay lập lờ
quanh gốc huyết mai và lởn vởn trên mái
tóc cùng màu mây của chị. Chị vừa lặt
lá huyết mai vừa bần thần nghĩ đến
hai lá thư cách nhau tới một phần tư thế
kỷ. Từng chiếc, từng chiếc lá theo
ngón tay lặt chậm chạp của chị khẽ
khàng rơi xuống chân để rồi xào xạc
bay đi theo gió bấc. Lá rụng về cội.
Đời chị và cả đời bé Hoàng chắc
rồi cũng như chiếc lá, nhưng phải là
chiếc lá huyết mai./.
Lê Nguyên Ngữ