MƯA CAO NGUYÊN

Nửa đêm về sáng, trời chuyển mình bức bối. Chị thức giấc vì cảm thấy ngực mình căng tức, rạo rực đến khó thở. Sợ con thức giấc, chị rón rén trở dậy bước ra mở cửa sổ. Đêm cao nguyên vật vã. Bầu trời loang lổ mây, khoảng đen khoảng sáng. Thoảng như có hơi nước? Mưa, mưa đi! Trong đời mình, chưa bao giờ chị khát mưa như lúc này. Chị khát cho mình, khát cho vườn cây với ngàn vạn nụ hoa căng nhưng nhức đang héo úa dần. Chỉ cần một trận mưa thôi là ngày mai những nụ hoa kia sẽ tung cánh trắng, hương thơm bị nén chặt bao ngày sẽ bung ra ngào ngạt!

Cả huyện Đăk Hà này đang nghĩ chị điên. Cà phê hai năm liền rớt giá, người ta đã bảo nhau chặt hạ hay bỏ mặc những vườn cà phê vật vờ, thì chị lại cố công chăm bón. Vì sao, chỉ một mình chị hiểu.

Ngày chị mới đến đây, vùng đất này còn hoang hoá như chính nỗi lòng của chị. Dưới con mắt của những hộ dân kinh tế mới quanh đó, chị là một con đàn bà chửa hoang. Chị lao vào làm hùng hục như trâu. Làm để nguôi đi nỗi nhớ nhà. Làm để quên đi nỗi tủi nhục bị bỏ rơi. Đất ở đây tốt quá, đỏ sậm như được ngào bằng mật, cắm cây gì xuống cũng lên nhanh vùn vụt. Thấy người ta trồng cà phê chị cũng trồng theo, đau có biết cây có giá trị kinh tế cao. "Cái số chị giàu!". Nhiều người bảo thế khi bé Thương 5 tuổi, vườn cà phê nhà chị trái sai chi chít, thương nhân ở đâu kéo đến vườn nườm nượp. Người ta tranh nhau mua, đua nhau nâng giá. Nghe đâu bên châu Âu, châu Mỹ người ta chặt hạ cà phê giống cũ thay giống mới nên thị trường cà phê khan hiếm. Một cân cà phê bằng mười cân lúa. Chị trở thành triệu phú mà ngỡ như trong mơ. Chị chưa biết dùng số tiền ấy vào việc gì thì có người khuyên nên mở rộng diện tích cà phê. Chị nghe theo và lại trúng lớn.

Đúng lúc ấy thì hắn trở về. Gần chục năm trời hắn không thèm ngó ngàng đến mẹ con chị, bây giờ hắn ngang nhiên tuyên bố nhận con. Hắn đã bị cắt chức vì tội tự ý cho chặt cao su để trồng cà phê. Chị biết thế nhưng vẫn mủi lòng trước lời lẽ của hắn: "Bây giờ không vướng bận tổ chức, anh sẽ hết lòng chăm sóc mẹ con em". Vì con, chị lại một lần nữa xiêu lòng.

Những tháng đầu về ở với chị, hắn hết lòng thật, cũng xăm xắm làm cỏ bón phân. Có tiền, có chồng, chị trẻ lại thời con gái. Giữa vườn cà phê bạt ngàn hoa trắng, chị nâng một cành lên ngửi, bảo hắn: "Anh xem, hoa cà phê rất giống mùi hoa bưởi này!". "Giống mùi tiền thì có!" - Hắn cười hềnh hệch rồi ôm thốc và rúc đầu vào ngực chị y như những lần trong rừng cao su rợp lá 10 năm về trước. Xung quanh hai người, từng đàn bướm bay lơi lả, có con lao vào cả mặt chị. Lúc này chị mới để ý cứ đến mùa hoa nở, vườn nhà chị lại có rất nhiều bướm. Những con bướm xanh đỏ tím vàng đủ loại, khi hết mùa hoa chúng lại biến đi đâu mất tiêu. Oằn mình trong vòng tay hắn, chị đem điều thắc mắc này ra hỏi. Là kỹ sư nông nghiệp nên hắn quá rành. Hắn chỉ cho chị thấy những cái kén sâu treo lủng lẳng dưới tán lá cà phê, giảng giải: "Bướm từ đó chui ra hút mật, giao hoan rồi lại đẻ trứng vào lá, trứng nở thành sâu...". Hắn nói chưa hết câu, bất giác chị nhếch mép cười. Nhận ra, hắn díp mắt, nhăn nhở: "Hỏi vớ hỏi vẩn", rồi lại vục mặt vào ngực chị.

Cũng vào mùa hoa năm đó có một người đến hỏi thuê vườn nhà chị để đặt ong. Thâm tâm chị không thích những con ong, cho rằng bướm ong là loài bạc bẽo, hút hết mật hoa lại vỗ cánh bay đi. Chị hỏi ý kiến hắn, hắn sáng mắt lên: "Cho thuê. Mất chó gì đâu. Vừa được người canh vườn hộ, vừa tăng cường khả năng thụ phấn cho hoa".

Người nuôi ong cất một cái chái nhỏ làm bếp, xếp những chiếc hộp gỗ xinh xinh thành hàng trong vườn nhà chị, rồi mắc võng ở hai cây muồng của hàng rào chắn gió, căng lên một tấm tăng như mái nhà để ngủ tại đấy. Nghe tiếng ong râm ran, chị cảm thấy vui vui. Bầy ong say mật bay chuếnh choáng. Chị cũng chuếnh choáng say bởi nghĩ đến một mùa quả bội thu.

Rồi tới mùa quả chín. Chẳng biết có phải nhờ ông hay không mà năm đó cà phê nhà chị nhiều trái quá. Trái chi chít, đỏ mọng, trĩu cả cành, ước tính phải gấp rưỡi, gấp đôi năm trước. Nhưng hỡi ơi, cà phê tụt giá! Một cân cà phê không bằng một cân gạo. Nhiều nhà điêu đứng hoảng loạn lên vì cà phê. Người ta kêu trời kêu đất. Hắn cũng nghiến răng chửi đời đen như mõm chó! Còn chị, chị chỉ thất vọng chứ không buồn. Tuy giá cà phê hạ nhưng chị không lỗ, bởi chị không thuê nhân công. Chết là chết những "ông chủ đời mới" bỏ tiền ra mua và thuê người làm toàn bộ, một tuần mới cưỡi xe từ thị xã lên, mang theo bia lon, thịt rừng để nhậu với bạn bè như một thú chơi thời thượng. Vì thế nên khi hắn bàn với chị bán quách vườn, ra thị trấn mua nhà, chị đã không nghe. Hắn nổi khùng: "Cô là người không thức thời". Chị chỉ im lặng. Ngày còn làm giám đốc nông trường, có lúc hắn đã được đánh giá là có năng lực, linh hoạt, nhạy bén... Biết đâu hắn đúng? Biết đâu hắn nói thế cũng là để lo cho cái gia đình nhỏ nhoi vừa mới được gây dựng.

Nhưng chị đã nhầm. Chị đã kêu lên một tiếng trời ơi rồi ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, chị thấy người nuôi ong đang ngồi bên cạnh. Anh khẽ khàng: "Tôi thấy cháu Thương ra gọi mới vào. Không hiểu có chuyện gì...". Chị không đáp, đôi mắt mở to thất thần nhìn trần nhà. Chị cứ ngỡ hắn giận chị không chịu bán vườn nên bỏ đi mấy ngày. Ngờ đâu, khi mở tủ mới biết hắn đã lấy đi toàn bộ số tiền chị dành dụm từ trước tới nay.

Khi hoa cà phê tan là mùa hoa cao su nở. Đã hết mùa hoa cao su mà người nuôi ong vẫn chưa thể đi được như thoả thuận ban đầu. Chị ốm liệt giường. Bé Thương còn quá nhỏ. Chị hỏi trong lúc bàn tay anh run bắn trên trán chị: "Anh giúp tôi thế này, còn đàn ong?". "Chị cứ yên tâm. Chúng phải lấy mật xa hơn thôi. Khi nào chị khỏi tôi sẽ đi".

Anh khuyên chị không nên nằm nhiều. Nghe lời, mặc dù đầu óc còn vàng vất, chị cũng cố trở dậy đi thơ thẩn trong vườn. Anh vắt mật ong cho chị uống và bảo: "Mùa này mật tốt nhất vì là mua hoa đắc đốm". "Hoa đắc đốm ở đâu anh?". "Cách đây 40 cây số đường chim bay". Tự dưng mắt chị cay xè. Bé Thương hồn nhiên hỏi: "Kìa, sao mẹ lại khóc?". "Mẹ thương những con ong, con ạ". "Con ước gì vườn nhà mình thiệt là rộng, thiệt là nhiều hoa". "Để làm gì con?". "Để những con ong không phải bay xa". Cả anh và chị đều bật cười trước câu hỏi vô tư ấy.

Chẳng biết từ lúc nào, chị đem lòng yêu đàn ong như chính chủ của chúng. Mỗi sáng, chị lại háo hức cùng anh mở những chiếc hộp để nghe tiếng ong xuất phát vần vũ như mưa. Rồi đến khi bầy ong đi hết, khu vườn ắng lặng, chị lại thấy lòng mình trống trải.

Càng cuối mùa khô, bầy ong đi lấy mật càng xa. Chị đã rớt nước mắt khi thấy những con ong kiệt sức sau chặng đường tìm mật, lảo đảo bay xa tổ để chết, khỏi làm phiền đến bầy. Và chiều đó, khi mặt trời đỏ rực chìm dần xuống dãy núi, đàn ong mới trở về. Nhưng lạ thay, có những con không bay về tổ mà lừ đừ, chuệnh choạng mãi rồi lơi lả tả xuống sân nhà. Những cánh ong run rẩy trên nền đất xám lạnh. Anh run run nhặt lên một con đặt vào lòng bàn tay. Con ong oằn mình một cái rồi duỗi cánh chết, từ bụng nó tiết ra một giọt mật đặc keo, xanh lét. Anh giật mình dùng ngón trỏ chấm giọt mật dị thường ấy bôi lên mu bàn tay. Một phút sau nơi đó nổi lên những mụn đỏ li ti, bỏng rát. Mặt anh biến sắc, thẫn thờ: "Mật hoa độc".

Sáng hôm sau, mở cửa những hộp ong, chị giật mình nghe tiếng vỗ cánh lạ. Đàn ong bay xoay tròn như chong chóng xung quanh ong chúa rồi bốc dần lên cao. Anh đứng như ngây như dại rồi hốt hoảng cởi áo tung lên. Nhưng vô vọng. Mở chiếc hộp thứ hai. Cũng vậy. Chị lo lắng hỏi: "Bây giờ làm sao, anh?". Anh thở dài buồn bã: "Chắc phải đưa chúng đi thôi". Chị đề đoán: "Chắc chúng đói. Hay ta cho chúng ăn đường?". Anh im lặng hồi lâu rồi khe khẽ lắc đầu. Chị buồn: "Mất có hai tổ ong mà anh tiếc à!". Anh không trả lời. Từ hai hốc mắt thâm quầng của anh rỉ ra hai giọt nước đặc quánh, đỏ bầm như máu. Trong đời chị đã nhiều lần thấy nước mắt, nhưng chưa bao giờ thấy giọt nước mắt kỳ lạ như vậy. Nó đọng dai dẳng trên gò má sạm đen của anh. Tim chị nhói lên những nhịp đập khác thường. Bằng trực giác nhạy cảm đàn bà, chị đoán anh sắp bỏ nơi này mà đi.

Sau trận ốm ròng rã mấy tháng liền, nhờ bàn tay chăm sóc của anh, nhờ mật ong nguyên chất, chị dần tươi tỉnh lại. Đêm ấy, vâng, cái đêm cách đây đúng một năm, chị ngủ một giấc ngon lành không mộng mị. Chợt chị thức giấc vì có tiếng sấm vọng ì ầm. Trong đêm trời đất chuyển mùa, chị cảm thấy tâm hồn tưởng đã tàn lụi bởi giông tố cuộc đời bỗng nhiên được đánh thức, như mầm cây bị vùi trong tro đất cựa mình khao khát vươn lên. Chị thốt lo lắng cho anh. Nếu trời mưa xuống thì sao? Như có ai xui khiến chị trở dậy khêu đèn rồi ngồi thừ ra nghĩ ngợi. Trời mỗi lúc một bức bối. Bé Thương đang trong giấc ngủ, khuôn mặt đẹp tựa thiên thần. Chị cả quyết đứng dậy và khẽ khàng bước ra vườn, đứng lặng trước chiếc võng buông mùng kín mít. Im lìm. Chân chị run bắn, muốn khuỵu xuống khiến chị phải ôm gốc cây muồng thở dốc không biết bao lâu nếu như không có một ánh chớp rất gần. Tiếng sét nổ đanh đã hất chị nhào tới võng lay anh: "Dậy... anh Đạo!". Anh ngỡ ngàng ngồi dậy ngơ ngác: "Gì thế... chị?". "Vào nhà kẻo... mưa...". "ồ, cám ơn chị, có mái che, ướt làm sao được". Nghe anh trả lời thế, chị tủi thân bật khóc. Và trời mưa. Mưa xối xả. Mưa điên cuồng. Anh bật khỏi võng xô chị: "Vào nhà ngay! ốm lại thì chết!". Mặc kệ. Chị vẫn đứng như trời trồng. Hai người đứng như hai pho tượng nhà mồ ngây dại nhìn nhau qua những lằn chớp nhoá nhoà không ngớt. Cuối cùng, nhận ra ánh mắt quyết liệt thi gan cùng trời đất của chị, anh đã phải lập cập dìu chị vào nhà.Người lo lắng lẽ ra phải là anh. Nhưng không, chị cuống cuồng bắt anh trút bỏ bộ quần áo sũng nước, cuống quýt lấy khăn lau cho anh. Lúc đó, anh đứng đực giữa nhà như thân cây chết đứng, gối run nhong nhóc, răng va vào nhau cầm cập. Anh ngoan ngoãn nằm xuống giường để chị xoa dầu, cạo gió. Bàn tay chị ban đầu còn lăn tăn, sau hối hả chà siết đến nóng ran trên người, rồi run rẩy dừng lại ở ngực anh. Trong chị cồn lên nỗi khát thèm mãnh liệt của bản năng mới hồi sinh. Bất chấp anh có phản đối hay không, chị cứ kéo tuột anh vào vòng mê đắm. Nhưng đáp lại sự cuồng nhiệt như thuỷ triều cuồn cuộn, anh vẫn nằm ngay đơ trong vòng tay siết chặt của chị. Toàn thân anh căng cứng, nóng hừng hực như một hòn núi lửa sắp sửa phun trào. Răng anh nghiến chặt đến bạnh quai hàm, yết hầu chạy lên chạy xuống như thể cố nuốt khan một vật gì tắc nghẹn trong cổ. Chị nhắm mắt lại cảm thấy mình đang tan rữa như một cây kem mướt mát. Đúng lúc đó, một cơn gió mạnh đã hất tung cánh cửa khép hờ, mưa quất vào nhà ràn rạt. Anh bật dậy như mũi tên rời nỏ lao vụt vào đêm mưa đen kịt.

Chị rã rời, hẫng hụt, rơi tõm vào vực thẳm ê chề. Chị đã nguyền rủa anh, nguyền rủa tính hèn nhát của anh, nguyền rủa cả cơn mưa gió vô tình. Mưa đã đẩy chị đến với anh rồi chính mưa lại giật anh ra khỏi vòng tay của chị.

Sáng hôm sau anh gõ cửa sớm, tiếng gọi ngàn ngạt như hụt hơi. Chị giận dỗi trùm chăn kín đầu để không nghe gì nữa. Mãi đến trưa, bé Thương chạy vào mếu máo: "Mẹ ơi, bác Đạo đi rồi!", chị mới hoảng hốt chạy ra. Khu vườn không còn những hộp ong trở nên trống trải tựa vườn hoang. Mấy con bướm đói ăn đang tranh nhau bâu vào những chiếc hoa cà phê mới nở quắt queo dị dạng. Vậy là chị đã đoán đúng. Anh tiếc bầy ong nên đã bỏ đi. Bầy ong quý hơn chị ư? Chị chua xót nghĩ. Được rồi. Đã thế chị sẽ chặt hết cả vườn, xem anh và bầy ong sang năm lấy đâu chỗ trú. Chị vùng vào nhà lấy dao ra chặt như điên như dại vào hai cây muồng nơi anh mắc võng. Nhưng rồi... tay dao của chị đã phải khựng lại khi nhìn thấy trên cây muồng có một bọc nilon. Chị mở ra và càng giận dữ. Tiền! Anh ta trả tiền thuê vườn? Cái chị cần là thứ khác cơ. Chị hất tung xấp tiền vào gốc cây. Và chị sững sờ: Một lá thư!

Chị đứng bàng hoàng giữa vườn cây im ắng mà nghe đâu đây những lời anh nói âm âm như của một người đã chết:

"Chị Tâm! Tôi ra đi không phải vì đàn ong đói mật, mà vì một lẽ khác tôi chưa nói cho chị biết. Tôi đã có vợ. Chắc chị bảo tôi lên giọng đạo đức chứ gì? Không, vợ tôi đã chết 20 năm, chết ngay trên bàn đẻ, đứa con đầu lòng của chúng tôi chỉ là quái thai không chân tay, toàn lông lá. Chắc chị đã hiểu rồi chứ. Tôi đã từng mắc võng ngủ trong những cánh rừng hồi đêm còn xanh tốt, sáng ra đã trơ trụi bởi chất khai quang. Tôi là đàn ông nên tôi không thoát khỏi lẽ thường tục. Tôi bỏ làng ra đi làm nghề nuôi ong với suy nghĩ: cuộc sống nơi hẻo lánh sẽ tránh cho mình những quan hệ không nên có. Nhưng cuộc đời đã run rủi tôi gặp chị. Rồi... tôi yêu chị. Yêu thực lòng. Tôi sợ, nếu ở lại, một lúc nào đó, tôi không giữ nổi mình thì tội cho chị quá. Mong chị hiểu cho tôi".

Chào chị và cháu Thương.

Đạo

Chị khóc. Khóc ghê quá. Hai mẹ con ôm nhau khóc như mưa, như gió. Bé Thương hỏi trong tiếng nấc: "Bao giờ bác Đạo về?". Chị nín bặt. Biết trả lời con thế nào? Nhưng rồi như có tâm linh mách bảo, chị trả lời tự tin: "Đến mùa hoa năm sau, con ạ!". Trong chị lớn dần một niềm tin mãnh liệt. Chị lao vào chăm sóc vườn cà phê với một ý nghĩ và tình cảm chỉ mình chị biết.

Một tràng sấm nổ ran. Bầu trời đêm như bức màn đen bị xé toạc ra làm nhiều mảnh. Một làn gió mát rượi từ hướng núi Chư Mon Ray thổi thốc vào nhà. Và tiếng mưa. Mưa rộn ràng reo. Chị đưa tay hứng nước từ giọt hiên vã lên mặt tận hưởng cảm giác hồn nhiên thời thiếu nữ. Mặc cho những bụi mưa li ti theo gió vào quấn quít quanh mặt, quanh hai cánh tay trần, mơn man cả khoảng ngực áo trễ tràng. Chị hân hoan đón mưa như những cây trong vườn đang hoan hỉ. Chị sẽ đứng, đứng đến sáng nếu như trong cơn mê ngủ bé Thương không ú ớ gọi: "Mẹ ơi... Bác Đạo...". Chị bước những bước lâng châng đến giường ngả lưng vỗ về con: "ừ, ngủ đi con ngoan. Bác Đạo sắp về!". Chị dỗ con. Chị tự dỗ mình. Chị chìm vào giấc ngủ. Chị nghe có tiếng tí tách của nụ hoa cựa mình. Chị ngửi thấy hương hoa đã bắt đầu thoang thoảng. Rì rào. Rì rào... trong giấc mơ chị nghe có tiếng đàn ong mật bay về./.

Đỗ Tiến Thuỵ

 

     

 

Trang ch  |  English  |  Kỳ trước | Âm thanh


Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ-Hà Nội ĐT: (84 4) 9344231

Fax: (84 4) 9344230 Email:[email protected]

Tổng Biên tập: ĐINH THẾ LỘC