NGHIỆP CẦM CA

Ngày ấy còn đọc được sách chữ Nho, cứ đêm hè chờ trăng lên, ông ngoại tôi thường đem đàn bầu ra gẩy. Cái đàn thì bố Toàn mua dưới Hà Nội biếu khi mới về làm rể. Bài đàn là do ông tự chế, bà ngoại bảo vậy. Ông lại giảng giải đó là khúc "Nam ai nam bằng", tôi nghe mãi thành quen. Có một đêm, trăng treo hờ ngọn tre trước ngõ và hoa dẻ dâng hương thơm vào tận nhà. Chả hiểu hứng chí thế nào, mẹ Phụng lại nài nỉ ông đàn thử bài "Câu hò bên bến Hiền Lương". Mẹ hát mấy lần cho ông nghe, giọng ca mới ngọt ngào lạ. Nhưng ông ngoại bảo bài ấy là tân nhạc không mò được "nốt" trên sợi dây thép nhỏ tí đã bị nối hai chỗ.Rồi ông than vãn:

- Học hành chả ra sao. Được vào Trung cấp sư phạm còn làm cao không đi. Giờ đã có con gái lớn tướng vẫn ở nhà làm ruộng, lại còn hát xướng nữa thì chả thoát khỏi cái nghiệp cầm ca đâu.

Mẹ ra giếng múc nước thổi cơm, bà ngoại còn nói bâng quơ:

- ái ố mĩ miều lắm đấy. Ngày xưa mười tám tuổi, lấy vợ rồi mà đêm nào cũng còn mò ra bến đò Đà Sơn hát ví. Vợ chờ cửa không biết bao nhiêu đêm mà kể. Giờ lại còn khéo chê trách cái nỗi gì.

Đến bữa cơm, có đĩa tép gạo rang khế với lá chanh, ông sai tôi lấy nậm rượu. Cái nậm ấy là quả bầu con đã phơi khô rút ruột, rượu với mồ hôi ngấm thuộc lâu ngày đen bóng. Phải khéo tay mới rót được rượu vào cái chén hạt mít, việc ấy trong nhà chỉ có tôi. Ông nhìn chăm chú bàn tay tôi nói cứ như thầy địa lý:

- Nhà này xem ra chỉ mỗi con Thảo là theo được việc đèn sách. Tao đã ngẫm chán rồi, có khi là tại cái thế đất của làng thôi. Hễ cứ ở bên này sông Cầu thì rặt chỉ làm nghề nông, khá nữa lại cũng chỉ theo nghề đàn hát. ở Đà An bên kia sông mới là đất học. Bên đấy có hẳn mấy đứa được đi học tận Liên Xô. Mà cùng học một trường cấp ba huyện này, cùng cô giáo Hạnh làm chủ nhiệm".

Hè năm ấy tôi được giấy báo trúng tuyển đại học Ngoại ngữ Thanh Xuân dưới Hà Nội. Bà ngoại bỏ buổi làm đồng, xuống tận bến đò mua cá tươi về liên hoan. Ông Diu chuyên nghề vó bè, lúc nào cũng sẵn cá nhốt dưới sông. Ông chọn con chép hơn hai ký bỏ vào rổ cho bà, nói:

- Con Thảo kỳ này trúng đại học là mát mặt cho cái làng Đà Sơn mình rồi. Có con cá chép ngon mới đánh đây, bà đem về cho ông làm chén rượu để cả nhà ăn mừng, tiền nong gì".

Tôi sung sướng chả muốn ăn uống nữa, đạp xe một mạch xuống nhà cô chủ nhiệm. Cô giáo Hạnh biết tin trước đã luộc sẵn rổ lạc. Có mùi nước lá bưởi phả hương thơm tận ngoài ngõ. Tôi lúng búng không nói thành lời, mặt đỏ dừ, chạy tọt xuống bếp xem cô tranh thủ gội đầu. Dội xong lần nước cuối, cô đứng lên lấy khăn thấm khô mái tóc. Vẫn mùi lá bưởi quen thuộc đàn bà con gái trong làng thường đun nước gội đầu với bồ kết, nhưng mùi hương ấy giờ lại toả ra từ suối tóc óng mượt đang buông dài xuống tận đôi chân thon thả kia, mới thơm lạ. Cô Hạnh cúi xuống quay người càng làm nổi rõ lên những đường cong đầy đặn mà đứa con gái như tôi cũng phải mơ ước. Cái dáng người Hà Nội đi đâu cũng chả lẫn. Chỉ lạ là cô gái Hà thành đẹp mê hồn như thế lại chịu khốn khó mấy chục năm nay để dạy học ở một trường cấp ba chẳng tên tuổi như thế này.

Đến lúc mẹ Phụng kể lại, mọi chuyện mới rành rọt.

... Ngày ấy cuối chiến tranh. Bom Mỹ ném xuống khắp vùng này. Cô Hạnh học sư phạm Hà Nội xin về trường cấp ba Quang Phú thực tập. Thầy cô giáo đều ở trong nhà dân, cô Hạnh chọn ở nhà bà ngoại. Làng Đà Sơn được coi là dặc biệt do có đoàn cán bộ dưới Hà Nội lên sơ tán. Dân làng phải đào thêm hầm hào, áo quần đều phải đem nhuộm nâu hoặc xanh lá cây. Người ta giữ bí mật lắm. Nhưng cô Hạnh lại là người đầu tiên phát hiện ra đó là Đoàn ca nhạc của Đài phát thanh và quả quyết những cái vali dèn dẹt màu đen ấy là hộp đựng đàn với kèn sáo. Tin ấy lan nhanh khắp làng.

Mấy hôm sau máy bay Mĩ lên ném bom Khu gang thép, bị lính cao xạ bắn đuổi. Qua vùng trời Quang Phú cứ bay thấp ràn rạt tránh đạn. Bố Toàn bảo đó là lối bay trinh sát. Thế là người ta đổ tội cho cô Hạnh làm lộ chuyện Đoàn ca nhạc về Đà Sơn sơ tán nên cơ sự mới ra như thế.

May mà làng vẫn yên lành, bom đạn chỉ nổ ùng oàng nơi khác. Cô với mẹ thân thiết như chị em gái. Cô biết trước những buổi đoàn tập ca khúc mới và thường rủ mẹ đi nghe từ đầu đến cuối. Nhất là biết tin có ca sĩ Hoàng Phong tập với dàn nhạc thì không bỏ sót buổi nào. Hạnh kể hồi còn sinh hoạt trong đội ca múa 'Hoạ mi" dưới Hà Nội, chính Hoàng Phong đã dạy cô học thanh nhạc và ký xướng âm. Nhiều người yêu thích khen ngợi giọng hát của anh bởi cái vẻ thô mộc tự nhiên như nỗi niềm thật lòng người. Hạnh và lớp đàn em trong đội "Hoạ mi" cố bắt chước mà cũng chả được.

Về sau hai người ấy tìm được nhau, thân nhau đến đâu chả biết. Chỉ thấy hôm làm lễ tổng kết học kỳ một năm ấy, cô Hạnh "kéo" được Hoàng Phong về trường hát. Không ngờ chiều hôm sau, bố Toàn vừa được giữ chức Trung đội trưởng dân quân, đi họp Uỷ ban xã, về đến cổng đã quát tướng:

- Cái tay ca sĩ ấy còn đến đây là tôi đuổi. Nếu không nể cô giáo Hạnh ở trọ nhà này thì tôi đã lệnh cho dân quân trói gô cổ ngay đêm qua rồi. Bom đạn ầm ầm, hầm hào công sự đào khắp hai bên sông Cầu thế này mà hát hỏng kiểu gì lại cứ gào tướng lên "Xây cho nhà cao cao mãi". Rõ là mất lập trường.

Cô giáo Hạnh và cả nhà ngồi im không ai dám cãi.

Từ đó không thấy ca sĩ Hoàng Phong đến nhà chơi nữa. Cô giáo Hạnh bị đình chỉ thực tập. Làng Đà Sơn hè năm ấy, đêm xuống chỉ còn tiếng sáo diều bơ vơ giữa trăng sáng.

Chiến tranh kết thúc, cô giáo Hạnh lại lên Đà Sơn dạy học. Trường cấp ba xây mới trên phố Huyện có khu tập thể khang trang, cô ở luôn trên đó. Mẹ và cô cũng không gặp lại nhau...

Những chuyện ngày ấy đã lùi xa. Gia đình tôi đã chuyển về Hà Nội. Tôi chẳng thể về thăm quê ngoại. Chỉ còn nhớ mỗi cây gạo trổ đầy hoa đỏ đầu bến đò Đà Sơn, nơi gái trai đôi bờ sông Cầu trao nhau câu hát ví. Ngẫm ra người đời đều thế cả. Khi không thực hiện được mong muốn tuổi tuổi thơ, ai cũng có nghìn lẻ một thứ lý do biện hộ cho mình. Mọi việc đã an bài theo cách của tự nhiên mà chính người trong cuộc cũng không giải thích nổi.

Tôi đã không được theo theo học khoa tiếng Anh như dự định mà lại trở về nước với tấm bằng tốt nghiệp nhạc viện Tchaicovski không đến nỗi tồi. Đời sống khó khăn đã hiện ra cụ thể hơn tôi tưởng. Mẹ bắt đầu tiếc: "Giá ngày ấy đừng đi nước ngoài, cứ học Ngoại ngữ thì bây giờ tiền dạy thêm tiếng Anh cũng nuôi sống được cả nhà". Bố thức thời nên không hay tiếc nuối. Ông bày cho tôi mở lớp dạy pianô. Đây là lối thoát dễ chịu, tất nhiên chẳng nhẹ nhàng gì.

Lớp chỉ có được ba học viên. Hai bé gái đang học phổ thông và một anh chàng nhỉnh hơn tuổi tôi, học xong Tổng hợp Văn mấy năm nay đang chờ việc. Cái tên Tú quả là rất hợp với cậu ta. Khôi ngô, trắng trẻo. Mười ngón tay búp măng, thon dài, Tú lại có nhạc cảm tốt nên chơi các bài tập thực hành không mấy khó khăn và khi trả bài, bao giờ cũng làm tôi bất ngờ. Tiếng đàn của Tú có chút gì lạ hơn những nốt "son phe" trong bản nhạc.

Đến khi học những bài tập khó, phải sử dụng cả hai "pê đan" thì Tú thực sự làm tôi thích thú. Mỗi lần ngồi vào đàn, gặp bài hợp ý thích, Tú thường cúi sát đầu say sưa lắng nghe những hợp âm vang lên và mười ngón tay như nhảy múa trên hàng phím lóng lánh sáng. Tiếng đàn của Tú nghe chắc lại sâu. Điều đó làm tôi vừa thích, vừa lo ngại. Ngày còn học ở Nga, Giáo sư Bát-smét khi nghe tôi đàn bản "Sonat số 5" của Beethoven hôm thi tốt nghiệp, đã nói: "Tiếng đàn của em có nội tâm lắm. Người như thế thường hay khổ đấy".

Sang năm học sau, hai bé gái kia bỏ học. Lớp tôi dạy chỉ còn một mình Tú. Mẹ lại thở dài lo lắng.

Bố Toàn bóng gió nhắc mãi chuyện con gái người bạn làm thư ký cho ông tây Thụy Điển, hình thức còn thua kém tôi, chỉ cần nói lơ lớ gần giống tiếng Anh thôi mà lương tháng đã ba "vé".

Rồi đến lượt Tú cũng lại xin thôi học. Tôi thực sự chán nản. Đến thăm nhà Tú mới vỡ nhẽ.

Bác Năm, bố của Tú kể nguyên do:

- Sau khi về hưu, bác xin làm hợp đồng ở công ty Môi trường đô thị. Nhận chăm sóc mấy chục con chim cảnh trong công viên chỉ để thêm tiền cho Tú học pianô. Công việc đang trôi chảy và có thể tốt đẹp hơn nếu bác không bày đặt ra chuyện cải tiến việc nuôi chim cảnh. Vốn thương những con chim trời bị nhốt trong những cái lồng chật hẹp, bác đem thả tất số chim cảnh vào chung cái nhà cao rộng đã chăng kín lưới thép xung quanh. Tưởng làm thế cho lũ chim sung sướng, hoá ra lại gây hoạ cho chúng. Mấy chục con chim cùng lúc vụt bay ra khỏi lồng chực lao vội lên trời xanh nhưng lập tức lại đâm sầm vào những mắt lưới mỏng manh bằng thép. Chúng loạng choạng rơi xuống đất đau đớn rồi đánh lộn nhau đến xơ xác, tội nghiệp lắm.

Bác Năm ngừng lời, rót nước giục tôi uống, rồi kể tiếp:

- Hôm sau họp giao ban trên công ty, chú tổ trưởng báo cáo với giám đốc rằng ông Năm sợ vất vả đã đem nhốt cả bầy chim cảnh vào một chỗ nên chúng đánh nhau, sắp chết hết. Bác bị cắt hợp đồng. Mất hai trăm ngàn một tháng là ra vấn đề đấy.

Tôi ái ngại, hỏi lại:

- Thế bác định bắt Tú bỏ học pianô luôn ư? Tú có năng khiếu thực sự mà phải bỏ học, cháu tiếc lắm. Cháu sẽ không thu học phí nữa, bác cứ cho Tú đến học đàn tiếp được không ạ.

Bác Năm ngần ngại, trả lời khó nhọc:

- Cảm ơn tấm lòng tốt của cháu. Nhà cháu cũng chả phải dư dả gì. Lại còn tiền cháu thuê đàn của người ta nữa. Để Tú phải bỏ học pianô thì chính bác còn đau hơn nó. Bác không tham vọng nó trở thành nghệ sĩ dương cầm. Chỉ muốn nó học để biết cách giãi bày tâm trạng trong tiếng đàn, dù rằng đến bây giờ bác gái vẫn bảo cái nghiệp cầm ca là bạc mệnh chỉ rước buồn phiền vào thân. Tháng trước bà ấy đã làm xong sổ hưu, ít nữa về hẳn dưới này bác sẽ thuyết phục để Tú được theo học tiếp.

Bác Năm tiễn tôi xuống cầu thang, nói như người có lỗi:

- Chung quy cũng chỉ tại bác. Để cho mình giống được như mọi người, ngẫm ra cũng khó thật.

Mấy đêm liền, mẹ con tôi trò chuyện đến tận khuya. Chỉ xung quanh tình cảnh nhà Tú. Mẹ khuyên nên quay lại nhà bác Năm xin cho Tú học đàn và sẽ cùng đến nói hộ chuyện miễn học phí.

Sáng chủ nhật. Tôi có dịp quan sát kỹ hơn căn hộ của bác Năm. Mới bước vào đầu hành lang đã thấy khang khác. Không vắng lặng như tối hôm trước. Cánh cửa phòng mở toang. Một vầng nắng từ ban công theo gió rải màu vàng nhạt xuống trước cửa. Căn phòng tràn đầy tiếng hát. Bác Năm vẫn mặc cái áo sơmi xanh ô-liu đang chăm chú lắng nghe bài hát, đứng quay lưng ra cửa. Chính tôi cũng bị hút hồn vào tiếng hát phát ra từ đôi loa thùng Sony đặt góc phòng. Cái chất giọng tha thiết thế này bây giờ tôi mới được nghe lần đầu tiên trong đời. Không hẳn như giọng nam cao, cũng không như giọng nam trầm. Và bài hát nữa, lời ca lạ lắm:

"Chảy đi Sông ơi, chảy đi Sông ơi..

Chuyện bao đời Sông biết cả

Mà sao vẫn trẻ mãi không già?

Chảy đi Sông ơi... Chảy đi kìa... Sông ơi..."

Câu hát giữ hai mẹ con tôi đứng lặng ngoài hành lang cho đến khi có tiếng ai đó trong nhà nói với bác Năm:

- Đấy nhé, tôi xin bàn giao băng ghi âm bài "Chảy đi sông ơi" mà ông hát hôm Đoàn ca nhạc tổ chức gặp gỡ các ca sĩ thời chống Mỹ đã nghỉ hưu. Tôi đã ký thay ông vào phiếu thù lao. Năm chục nghìn đây, ông cầm lấy. A, cái lúc giao tiền, bà Xuân phòng Tài vụ còn trách: "Sao lại viết tên là Đỗ Năm? Phải mở ngoặc ghi là ca sĩ Hoàng Phong chứ. Cái tên một thời âm vang trên làn sóng, đáng tự hào lắm. Đừng tự quên đi như thế". Bà ấy còn quay sang mấy cô kế toán vừa viết, vừa xuýt xoa: "Về hưu bao năm rồi mà hát còn say lòng thế, chả trách hồi chiến tranh cô giáo Hạnh lên dạy học sơ tán trên Đà Sơn "xin chết" là phải.

Mẹ như chạm phải điện, nắm chặt tay tôi giật mạnh.

Tôi thấy Tú đến bên cái đài, nhẹ nhàng cầm lấy cuộn băng cát-sét, cẩn thận như cầm cuốn gia phả. Tú nói với ông khách trong nhà:

- Bác Vũ ơi. Mẹ cháu vừa về tầu Thái đêm qua, giờ đang đi chợ. Mời bác ở lại ăn liên hoan nhân thể xin hộ cho cháu được học tiếp pianô. Nếu không là cháu sẽ mách cái câu bác vừa kể đấy.

Mẹ vội kéo tôi xuống cầu thang, không muốn để người trong nhà nhìn thấy. Bất chợt mùi hoa dẻ từ trong căn phòng ấy ùa ra. Đúng là hương hoa dẻ thân thương của quê ngoại tôi thuở trước. Tôi đứng sững như có ai vừa níu lại. Tôi sợ thứ hương thơm ngòn ngọt thế này cũng như sợ giọng đàn sâu lắng khi Tú chơi bản "Xô-nát só 5" của Beethoven. May mà mẹ Phụng không nhận ra vẻ bối rối ấy, bà chỉ ngoái lại hít một hơi dài. Tiếng mẹ bỗng trở nên xa xăm lạ lùng lắm:

- Thôi đúng thật rồi. Trên ấy độ này đang là mùa hoa dẻ.../.

Song Nhật Minh

 

     

 

Trang ch  |  English  |  Kỳ trước | Âm thanh


Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ-Hà Nội ĐT: (84 4) 9344231

Fax: (84 4) 9344230 Email:[email protected]

Tổng Biên tập: ĐINH THẾ LỘC