Tôi sinh ra trong một ngôi nhà to lớn với những
cột kèo nâu bóng cũ kỹ, nham nhở những
vết khắc vụng dại. Sau này mẹ tôi kể
lại, ngày tôi ra đời, hàng trăm con bướm
bay về đậu rợp cả sân. Bà tôi bỏ
vào buồng, không ra nữa. Bà ốm 3 tuần lễ.
Bà chỉ ốm 3 tuần lễ khi quá tuyệt vọng
vì một điều gì đó. Bà đã hy vọng
quá nhiều về một đứa cháu trai.Làng
tôi chạy dọc ven bờ sông, những cánh đồng
lúa xanh um chạy xa hút tầm mắt. Tôi lớn
lên giữa đám trẻ làng. Tôi bơi lội giữa
sông với người và trâu bò, lăn lê bò toài
trên đất với mèo, gà và chó. Tôi chơi
khăng, chơi bi, chơi đáo và cắt tóc con
trai, nhưng bà vẫn không quên tôi là con gái.
Ngôi nhà của chúng tôi không ồn ào như những
ngôi nhà khác. Nó thường vắng lặng. Bà
luôn ngồi bất động ở cái tràng kỷ
to lớn ở góc nhà, mắt hắt một thứ
ánh sáng bất hạnh. Mẹ tôi kết thúc công
việc của một ngày, lại đem áo quần
rách ra vá dưới ngọn đèn dầu leo lét.
Còn cô tôi ngồi sâu vào góc giường, nơi
ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn không
bao giờ vươn tới, tỉ mẩn ngồi
chải tóc. Tôi nằm gối đầu bên lòng mẹ,
vẽ những chữ o vô hình trên tường và
tập đếm. Lần đầu tiên tôi biết
đếm đến bốn cũng là lần đầu
tiên tôi biết nhà tôi có bốn người.
Ngày lại qua đi, tôi lớn lên như cỏ
cây trong vườn. Ngôi nhà của chúng tôi không
đông đúc như những ngôi nhà khác, nó thường
vắng lặng. Tôi không có ai để gọi bằng
cha hay bằng chú. Cái bàn thờ của ông tôi vẫn
thả lên khoảng không những làn khói hương
dày đặc, bền bỉ và nhẫn nại. Ông
vẫn cười rất tươi trên bàn thờ,
như tha thứ cho tất cả thế gian.
Cuộc sống vẫn lặp đi lặp lại
những vòng tròn bất dịch, chỉ có tôi lớn
lên từng ngày từng giờ. Tôi đã thôi đếm
số người trong nhà, tôi đếm sang nhà
hàng xóm, nhà bên ấy có mười một người.
Ba thằng con trai sàn sàn tuổi tôi, chúng nghịch
như quỷ sứ.
Cô tôi là cô giáo dạy cấp hai ở làng. Tôi
không biết cô dạy môn gì ở trường. Cô
ít nói, trầm mặc, lặng lẽ. Có lẽ cô
dạy môn địa lý. ở trường tôi, tất
thảy thầy cô dạy địa lý đều
như thế. Các đường nét trên khuôn mặt
cô đều đặn và đoan chính, chúng không
bao giờ nổi loạn. Tóc cô cũng óng ả
và cũng theo một trật tự, chúng luôn kết
thành hai chiếc bím dày.Khi tóc cô vừa chấm eo
lưng thì cô trở về cùng với một người
đàn ông, chú Hoạt. Đó là một buổi chiều
thứ bảy cũ kỹ và quen thuộc. Những
hạt bụi vẫn nằm yên ắng trong góc nhà
với đám mạng nhện. Mẹ đang dọn
cơm, tôi quấn lấy mẹ, bà vẫn ngồi
đếm từng khắc trôi qua trên tràng kỷ.
Cô về nhà với những bước chân vội
vã đầy e thẹn. Cô dừng lại một
chút bên cây bưởi, điều mà trước
đây cô chưa hề làm. Người đàn ông
dắt xe đạp phía sau cô cũng bước vào
sân với nụ cười cởi mở, đôn
hậu. Bà cũng cười, mắt thôi hắt quầng
sáng bất hạnh. Bà rời chỗ ngồi muôn
thuở, xăm xắm đi lại, tất bật
rộn rã. Lần đầu tiên khi tôi sinh ra, mâm cơm
có 5 người.
Đó quả là một sự kiện. Hình như
có một luồng sinh khí mới trong nhà, ấm
chén trên bàn sáng bóng, mùi trà xanh dịu ngọt toả
ra thơm phức. Chú Hoạt cho tôi những viên kẹo
xanh đỏ, bế tôi lên lòng. Đó là người
đàn ông có khuôn mặt và nụ cười
ấm áp, gợi nhớ đến màu đỏ
non tươi của viên gạch mới ra lò.
Cha tôi xưa cũng là người đàn ông như
thế. Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm,
cha trở về làng dạy học rồi vào bộ
đội. Mẹ tôi hồi đó là văn công.
Hai người cưới nhau khi đất nước
hoàn toàn giải phóng. Cha đưa mẹ về sống
với bà. Đó là quãng thời gian êm ả và
bình yên nhất trong cuộc đời của mẹ.
Cuộc sống cứ bình thản trôi đi. Cha
tôi là người đàn ông tốt và có trách nhiệm
với lời nói của mình. Và có lẽ vì vậy
nên sau câu thú nhận: "Anh đã yêu người
khác. Hãy tha thứ cho anh!", cha đã bỏ
đi theo người đàn bà nào đó.
Bà xem như không có cha nữa. Bà ốm 3 tuần
lễ. Bà bình phục hẳn khi biết rằng mẹ
đã có mang. Bảy tháng sau, tôi ra đời.
Đó là người đàn ông đầu tiên và
cuối cùng của mẹ!
Ngôi nhà của chúng tôi không im ắng và buồn
tẻ như xưa nữa. Nó ấm áp và rộn
rã như một ngọn lửa. Mỗi tối, mẹ
ngồi vá áo quần, bà ngồi bên tràng kỷ, cả
hai đều lắng nghe cô tôi nói. Cô vừa ríu
rít vừa chải những lọn tóc óng ả vừa
kết thành hai bím dày.
Khuôn mặt cô bừng lên một thứ ánh sáng
lạ mà tôi chưa bao giờ thấy. Chú Hoạt
vẫn đến nhà vào sáng chủ nhật. Đó
là những chuỗi ngày đầy ắp tiếng
cười nói. Bà như trẻ lại. Sông xanh hơn
và mảnh vườn trước nhà bật lên
màu óng ả non tươi.
Đề tài của câu chuyện mỗi tối
là chú Hoạt. Cô vừa đưa những nhát lược
vào mớ tóc vừa nói:
- Anh Hoạt chưa nói gì với con cả! Nhưng
con tin anh ấy rất thương con. Anh ấy còn
mẹ già và em gái ở quê, anh vẫn nói với
con rằng, mỗi lần đến nhà ta, cảm
thấy mình như được trở về nhà!
Anh ấy bảo tính con giống tính em gái anh ấy
lắm! Những lúc âý bà cười hiền hậu,
mẹ mủm mỉm cười nhìn cô. Còn tôi lúc
ấy chợt phát hiện ra sao mà cô xinh đẹp
thế! Chú Hoạt vừa về quê lên. Chú đem
biếu bà tấm khăn nhung, tặng cô cái cặp
đựng giáo án, tôi được gói kẹo rất
to. Phần của mẹ là một tấm vải
màu hoa cà. Chú bảo, chỉ có màu tím ấy là hợp
với mẹ. Nó đẹp mộc mạc, giản
dị và cũng rất dịu dàng. Mẹ nhờ
cô hàng xóm may một chiếc áo. Khi mẹ mặc
chiếc áo ấy, cả nhà ngẩn người nhìn
mẹ. Chiếc áo kỳ diệu đem lại cho mẹ
vẻ dịu dàng đằm thắm, và tôi như
thấy một vườn hoa cà tím trải mãi về
phía chân trời.
Hình như chú Hoạt cũng cảm thấy
như tôi, chú rất hay nhìn mẹ. Mỗi khi đến
nhà, chú hay giúp mẹ tôi làm cỏ ngoài vườn,
cho lợn gà ăn hoặc chẻ củi. Chú thái
rau khoai rất nhỏ và quét nhà rất sạch. Cô
ríu rít ra vào và rất hay bẹo má tôi.
Một hôm, nằm ngủ quên trong đống
rơm ở góc vườn, tôi tỉnh dậy khi
đã về chiều. Gió hiu hiu thổi, những
tia nắng cuối cùng của ngày ngả mình mơn
trớn những ngọn cây, bầy chim lách chách
trong vòm lá. Bỗng tôi nghe tiếng chú Hoạt:
- Tôi thương Nhài từ lâu! Nhài ạ! Xin
Nhài hãy nghe tôi nói! Người tôi yêu là Nhài! Bao
lâu nay tôi chỉ xem Lam là em gái thôi.
Tôi sửng sốt nhổm hẳn người dậy.
Mẹ đang níu lấy gốc xoan, mặt mẹ
tái xanh, hằn nét kinh ngạc. Mẹ không nói nổi
câu nào. Chú Hoạt vẫn tha thiết:
- Gần 1 năm nay tôi đến đây chỉ
vì Nhài. Tôi chưa bao giờ yêu Lam và không hề
ngỏ lời nào với cô ấy. Tôi thương
bé Ngâu như con gái mình! Nhài đừng lo ngại
rằng...
- Không! Không! Anh đốn mạt lắm! Khổ
thân Lam! Trời ơi... Tôi không ngờ...
Mẹ chạy vụt vào nhà, tức tưởi
và đâm sầm vào cô tôi từ trong nhà bước
ra. Cô sững lại:
- Chị làm sao thế? Chị Nhài! Có chuyện
gì vậy?
Chú Hoạt cũng vừa đuổi kịp mẹ.
Chú buồn rầu nhìn cô tôi, rồi nói:
- Lam ạ! Tôi vừa nói với chị cô rằng
tôi yêu chị ấy!
Cô tôi đổ vật xuống. Tôi ngồi trơ
ra giữa đống rơm và xé những chiếc
lá vàng tung lên theo gió. Lòng tôi cũng tan tác, có một
cái gì đó đã theo gió bay đi.
Chú Hoạt không đến nữa. Ngôi nhà tối
lại. Bà ngồi bất động trên tràng kỷ,
thở dài. Mẹ cắm cúi vá áo và không ngẩng
lên bao giờ. Cô ngồi sâu vào góc giường
như tránh làn ánh sáng yếu ớt của chiếc
đèn dầu đang vươn tới. Tôi loay hoay
giữa cô, giữa bà và mẹ, không biết nói
gì. Tôi vừa mới lên 10 tuổi.
Thời gian lặng lẽ trôi đi. Những mụn
vá của mẹ dày lên theo năm tháng. Cô vẫn cặm
cụi chải tóc, những lọn tóc mỏng dần.
Chúng thôi óng ả. Cô không tết thành bím mà cặp
sau lưng. Mỗi khi cô bước đi, mớ tóc
lại đập nhè nhẹ vào lưng, buồn bã
cam chịu.
Và chúng tôi cứ sống như thế. Khi tôi
tròn 15 tuổi thì bà tôi mất. Bà chết ngồi
trên tràng kỷ. Trước đó, bà cứ nhắc
đi nhắc lại rằng, bà muốn sau khi chết,
hãy đặt xác bà lên chiếc bè rồi thả
xuôi theo dòng sông và chỉ chôn bà ở chỗ nào
chiếc bè dừng lại. Chúng tôi theo chiếc bè
xuôi dòng, đi mãi. Chiếc bè trôi đến chân
ngọn núi có mộ của ông tôi thì dừng lại.
Dân làng đặt bà bên cạnh ông. Giờ đây
bà không còn ngồi lặng lẽ trên tràng kỷ nữa,
bà đã nằm bình yên trong đất.
Vài năm sau, tôi lên thành phố học đại
học. Ngôi nhà rộng thêm, hun hút. Mảnh sân
ngày một sậm rêu. Hai người đàn bà của
tôi ở lại nhà. Ngôi nhà cho đến bây giờ
vẫn không có đàn ông./.
Đào Phong Lan