Làng Văn là một cái làng cổ xanh biếc, gồm
6, 7 xóm quây quần lại với nhau tại một
khu vực hẻo lánh bên một nhánh sông Nhuệ.
Tuy vậy, làng Văn được nhiều
nơi biết đến. Những vùng xung quanh
đều dành cho làng một sự kính nể
ưu ái.Người làng Văn hiền lành, cần
cù, xởi lởi, ăn ở với nhau như ngày
xưa. Họ đối đãi với nhau rất
thân tình. Còn một điều nữa là riêng làng
Văn có cả chùa, đình, miếu thờ Mẫu
Liễu Hạnh; chùa, đình, đền ở
đây đều liệt vào hạng hoành tráng, cổ
kính và thơ mộng nhất vùng. Khách thập phương
tới đây đều trầm trồ quyến
luyến. Nhà văn đến đây viết bài,
các hoạ sĩ đến đây vẽ cảnh, vẽ
người. Khách nước ngoài đến chụp
ảnh cái cổng làng, cái cầu mái ngói...
Dân làng Văn cấy lúa, làm vườn, trồng
rau và trồng cây ăn quả. Bưởi làng Văn
ngon, thơm và để được lâu có tiếng.
Nó ăn đứt bưởi Đoan Hùng. Nếu
ai khéo tay hay làm, trông nom được chừng 40
gốc bưởi là có thể tạm đủ sống
trong cả năm. Do đó, nhà nào cũng cố có
lấy một mảnh vườn.
Họ bên ngoại tôi ở làng Văn. Lúc nhỏ,
tôi có về theo mẹ tôi vài lần. Mỗi lần
về quê là tôi lại xin ở nán lại thêm vài
ngày. Phong cảnh như tranh, những nụ cười
niềm nở, hội hè, đình đám... đã
in sâu vào trí óc của tôi những điều cực
kỳ tốt đẹp và say sưa. Và chính chúng
đã nảy nở trong tôi những mầm non nghệ
thuật.
Người làng Văn mà tôi được tiếp
xúc sớm nhất và được tôi yêu quý nhất
là cậu Hoạt. Cậu là con trai độc nhất
trong gia đình. Cậu là con cầu tự nên chẳng
ai dám làm cho cậu không hài lòng. Bà Cúc là mẹ cậu
vẫn nhắc nhở: "Cậu giận là cậu
về chùa, chứ không ở lại trần gian
đâu...". Cậu Hoạt chỉ học hết
tiểu học rồi sống tự do, vui chơi
thoả thích, phóng túng. Cậu thường cùng một
số bạn chơi đủ mọi trò. Cậu
thổi ống xì đồng bắn chim. Lên tận
vùng Ba Vì bẫy chim ngói, làm diều, thả diều.
Chơi cá cảnh, cây thế, đánh cờ tướng...
Trong mọi trò, cậu tỏ ra rất khéo và nhanh
trí. Cậu lại đến nhà cụ Bích học
đánh đàn nguyệt và kéo nhị. Chỉ trong
hai năm luyện tập, tiếng đàn và tiếng
nhị của cậu đã làm xôn xao cả xóm
làng. Ai cũng thèm nghe cậu đánh bài Hành Vân
và bài sa mạc bay bổng, réo rắt và sương
khói của cậu. Cụ Bích là người khó
tính cũng phải nói: "Thằng Hoạt này là
một tài hoa hiếm có".
Cô bé Từ ở làng bên thỉnh thoảng sang
làng Văn thăm bà dì là bà Tợo. Cô chỉ
quanh quanh mấy khóm tre xanh rồi qua cái cầu mái
ngói là đến nhà bà Tợo. Ngôi nhà ấy lại
ở phía sau nhà cậu Hoạt. Cô sang giúp bà Tẻo
làm vườn. Cô mê say tiếng đàn và tiếng
nhị của cậu. Cô thấy những âm thanh kỳ
diệu ấy bay lên cùng tiếng lòng của cô...
Trong đó có cả búi tre xanh, đồng ruộng,
tiếng chuông chùa, tiếng re em... Nghĩa là có nhiều
điều về cậu Hoạt. Có những điều
mà nhiều người không hiểu về cậu
Hoạt thì cô hiểu rõ. Mọi thú vui làng quê
đều có trong con người cậu Hoạt vì
cậu tôn thờ những vẻ đẹp và âm
thanh muôn sắc muôn màu của quê hương.
Cậu Hoạt và cô Từ gặp nhau ở bờ
ao nhà bà Tẻo, trong một đêm trăng khuyết.
Họ mới gặp nhau mà đã hiểu biết về
nhau rồi. Họ nhìn nhau đắm đuối lắm...
Họ cùng nhau đi quanh làng, người nọ cách
người kia chừng 5, 6 bước để giữ
bí mật. Nhưng thỉnh thoảng họ gần
sát lại với nhau, trao đổi vài cầu rồi
lại đi cách nhau một đoạn. Đêm
tháng giêng, đâu cũng là mùi hoa bưởi. Cậu
Hoạt bảo: "Bây giờ là tháng giêng, hoa bưởi
thơm thoang thoảng, tháng hai thì thơm nức. Tháng
ba cây bưởi đã có những quả xanh. Lúc
đó là mùa sinh sôi...". Cô Từ áp sát vào cậu
Hoạt, bảo: "Vâng... em hiểu và em nhớ
cái câu nói rất hay này của anh...".
Hai hôm sau, cô Từ phải theo ông cậu ra Hà Nội.
Cô Từ rất buồn, lẩm bẩm: "Chúng
ta gặp nhau trong một đêm trăng khuyết".
Ra Hà Nội không lâu, cô bị một tên vô lại
có cỡ cưỡng hiếp. Cô thấy tủi nhục
và xấu hổ, nhất là cô cho là mình đã phụ
cậu Hoạt. Chuyện này không thể tha thứ
được. Ngày hôm sau cô bé bỏ nhà ông cậu,
lẻn ra đi lúc mới tờ mờ sáng. Cô sống
cuộc sống vỉa hè nay đây mai đó, nếm
đủ mọi chuyện cay cực, đau buồn.
Hai năm sau, cô lấy một hàng binh người
châu Phi tên Mohamad. Cô cùng chồng lên ở trại
hàng binh Âu Phi ở Sơn Tây. Mỗi buổi Mohamad
đi lao động, anh khoá cô trong buồng. Hết
giờ làm việc Mohamad về, cô mới cùng chồng
nấu ăn, giặt giũ. Tháng sau, cô cùng chồng
về ngoại ô thành phố Alger mở một
quán hàng cà phê kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, trà có
sữa và gừng cùng một vài thứ lặt vặt.
Hai năm sau, Mohamad luôn đau yếu và qua đời
trong một cơn đau tim. Bà chủ quán Từ vừa
trẻ vừa đẹp được nhiều
người đến cầu thân; xin cưới làm
vợ. Bà chủ quán một mực từ chối
ngay cả với những bạn trai có nhiều tiền
hoặc có quyền thế.
Một ngày cuối năm Rồng (2000), dân làng Văn
đang chuẩn bị vào Tết. Một chiếc
taxi trắng đỗ ngay gần cổng làng. Xuống
xe là một bà khách xinh đẹp, gọn gàng. Bà
đã ở tuổi 60, nhưng trẻ hơn thế
nhiều. Bà mặc chiếc áo dài màu mỡ gà. Cổ
đeo dây chuyền vàng. Bà đứng thẳng, nhìn
quanh làng, ra chừng xúc động. Bọn trẻ
chạy đến, vây quanh bà, hỏi chuyện:
- Bà hỏi nhà ai?
- Ta hỏi ông Hoạt.
- Ông Hoạt đánh đàn?
- Ông Hoạt trồng bưởi?
- Đúng.
Bọn trẻ cười nói, tranh nhau đưa
bà Từ vào nhà ông Hoạt. Ông nhìn bà một lúc
lâu rồi bảo:
- Mời bà ngồi. Ôi! Người bạn góc bể
chân trời đã đến.
- Dạ. Đã về chứ ạ. Em chào ông anh.
- Cám ơn... cám ơn.
Bà Từ khóc lên nức nở. Ông Hoạt lại
bảo: "Thôi bà đừng khóc nữa. Bà còn sống
là đã tốt đẹp lắm rồi. Một
kiếp người mà. Còn duyên mà... "Ông lại
cất lên giọng chèo: "ới a - chúng ta đây...
duyên nợ phải chiều i í ì..." Dáng diệu
ông vui nhưng giọng hát lại rất buồn.Họ
ngồi kể cho nhau nghe những câu chuyện của
họ trong mấy chục năm trời lận
đận, cứ đứt đứt, nối nối...
Có điều họ nói ít, hiểu nhiều.
Đêm hôm đó là đêm trăng mờ, một
số hàng xóm sang chơi với cậu Hoạt và
bà Từ. Cậu Hoạt lấy đàn xuống,
đi một khúc "Hành Vân" rồi cậu lại
lấy nhị ra kéo bài "Xuông hời". Có
đám mây trắng bập bềnh, đàn cò trắng,
sóng lúa rập rờn trong im lặng.
Bà Từ mua một gian nhà cuối xóm. Bà mở
vali ra. Bà đã sắm cho ông một bộ áo, mũ,
hia để ông dùng trong những buổi tế lễ
ở ngoài đình làng.
Đêm đã về khuya. Bà Từ bảo:
- Em biết là anh chưa lấy vợ. Tại
sao, anh đợi em chăng?
- Một nghìn năm cũng đợi...
- Anh đã biết hồi sau khi em ra Hà Nội rồi
lại... Em không xứng với lòng anh.
- Anh bất chấp cả nếu em có 2, 3 con với
người nào đi nữa mà em còn yêu anh thì anh
vẫn lấy em làm vợ...
Bà lại nhắc lại: "Tháng giêng vườn
bưởi thơm thoang thoảng. Tháng hai thơm nức
và tháng ba, cây bưởi kết quả. Đó là
mùa sinh sôi. Tháng tám, quả bưởi có màu vàng
bâng khuâng... Em nhớ mãi câu nói này của
anh...".
Sáng hôm sau, họ rủ nhau đi thăm chùa,
đình, miếu, cái cầu mái ngói, xóm tre, bến
sông... Họ thuộc về nhau và có được
niềm hạnh phúc thực sự.
Ngoài Tết, bà Từ lại ra Hà Nội rồi
trở về Alger, thu xếp làm mọi thủ tục
cần thiết để trở về làng Văn.
Bà vốn vẫn giữ quốc tịch Việt
Nam. Ông Hoạt và bà Từ sẽ làm lại cái
câu chuyện duyên kiếp với nhau.../.
Lý Khắc Cung