Cái tin có người chết trên đỉnh núi
Chúa làm cả làng Mực xôn xao. Nhiều người kéo ra bãi
cát, ngửng đầu chỉ vào đám lau phơ phất tít trên cao:
"Đó, chỗ đó”.
Núi Chúa cao vòi vọi. Muốn lên phải đi vòng
rất xa, từ phía trong đất liền, băng qua một quả đồi
rồi cứ thế trèo tiếp. Đường đi tuy ngoằn ngoèo nhưng
sườn núi thoai thoải, cây cối um tùm nên có thể vừa
đi vừa ngắm cảnh thiên nhiên. Trái hẳn lại sườn núi
bên này dốc đứng, nhô ra sát biển. Ngày đêm những con
sóng lớn đập vào vách đá tung bọt trắng xoá. Người dân
làng Mực đành chỉ có thể đứng dưới chân núi mà
nhìn lên và hỏi nhau xem người chết là ai, từ đâu đến...?
Cụ Toàn là người đầu tiên nhìn thấy
xác chết. Cụ kể với dân làng: Đang ngồi trong nhà thì
tôi nghe tiếng chim kêu. Chạy ra nhìn, thấy trên ngọn cây
cộc một con chim rất to. Tôi quay vào, lại nghe tiếng
chim. Lúc ấy mới nhận ra có người ngồi tựa vào gốc
cây như đang ngủ. Con chim kêu một tiếng thứ ba rồi vỗ
cánh bay đi. Tôi ra tận nơi thì thấy người ấy đã chết
rồi. Chết mà như đang ngồi ung dung ngắm cảnh, đầu
hơi ngả đôi mắt lim dim nhìn trời nhìn biển.
Cụ Toàn có ba người con trai. Từ sau cơn
bão số 5 khủng khiếp cả ba người con không một ai trở
về. Nghề đi biển là thế. Từ đấy cụ rời làng lên
đỉnh núi Chúa, dựng một túp lều. Ngày đêm cụ nhìn ra
biển, nhìn màu xanh mênh mông, mãi mãi mênh mông...
Anh cảnh sát khu vực cùng cụ Toàn lại gần
xác chết. Thoáng nhìn biết ngay đây là một khách du lịch,
người miền Bắc. Ông ta mặc cái áo vét cũ, quần ka ki
ống rộng, chân đi đôi giày vải đế mỏng. Anh cảnh sát
vừa nhấc chiếc mũ vải mềm trên đầu người chết, cụ
Toàn sửng sốt nhìn cái trán hói lơ thơ mấy sợi tóc bạc,
kêu lên: "Ông này... cũng nhiều tuổi rồi?". Trong
cái túi vải ông khách đeo bên mình, vật dụng còn
nguyên. Túi áo ngực có 200.000 đồng, ở túi quần sau,
trong ví còn có 600.000 đồng. Cụ Toàn lẩm bẩm: "Ông
này còn đi chơi xa , chơi dài ngày". Trên thi thể người
chết không một vết xây xước. Vậy là không phải bị cướp,
bị giết. Anh cảnh sát dự đoán thận trọng: Có thể sau
chặng đường dài leo núi vất vả, ông khách ngồi nghỉ
dưới gốc cây. Vẫn còn đầy chai nước khoáng cạnh bao
thuốc Vinataba đặt trên tảng đá. Chỗ này gió lộng. Phải
chăng ông khách bị cảm đột ngột, trái tim ngừng đập
và cứ thế, ông ngất đi.
Anh cảnh sát xuống núi, phóng xe ra thị trấn.
Theo địa chỉ ghi trên giấy chứng minh, anh phải điện
ngay về Thái Bình báo cho gia đình người chết biết tin.
Chị đã đến đây. Chị, cùng đứa con
trai mười tuổi. Nhận được điện báo, chị nửa tin nửa
ngờ. Ngồi trên chuyến tàu tốc hành vào miền Trung, chị
vẫn hi vọng người ta nhầm đấy thôi. Thiên hạ thiếu
gì người trùng tên trùng họ. Hoặc chỉ là anh phải cảm,
đang nằm trong một bệnh viện nào đó... Nhưng khi nhìn
chiếc túi, nhận ra chiếc kính lão của chồng, mặt chị
tái đi, chị bủn rủn chân tay, khuỵu xuống lúc chiếc khăn
che mặt anh được nhấc ra.
- Ới anh ơi, anh Hoàng ơi, sao anh lại bỏ
mẹ con em mà đi như thế này?
Đường núi dốc cao, làng chài ở tít dưới
xa nên mẹ con chị tối hôm ấy xin được ở với cụ Toàn.
Cụ Toàn đốt một đống lửa to. Cụ thường
đốt lửa như thế này: Để người đi biển thấy mà bơi
vào bờ. Không biết thằng Cả, thằng Hai, Thằng Ba nhà cụ
nhìn rõ chưa?
Gió thổi ù ù. Sóng biển vỗ ì ầm. Những
cái tàn lửa bay vút lên cao. Sương đêm càng xuống đậm
thì ngọn lửa càng cháy sáng rực. Người cha già ngồi
canh lửa trong đêm, hy vọng, đợi chờ...
Trong túp lều, đứa trẻ nhỏ đã ngủ
say. Bên đống lửa chỉ còn 2 người.
-Đời con khổ lắm bố ơi!- Chị nghẹn ngào kể lại cuộc
đời mình cho cụ Toàn nghe.
Ngoài 30 tuổi chị mới lấy chồng. Anh
Hoàng ngày ấy cũng đã 42. Hai làng cách nhau một dòng
sông. Sông hẹp, nhưng vẫn phải đi thuyền. Đám cưới
sang ngang, chú rể nắm tay cô dâu, dắt lên bến. Chị
luýnh quýnh để tuột chiếc dép, lại phải xuống đò rửa
chân.
Thế là chị xa mẹ, xa các em, đi lấy chồng
thiên hạ. Người ta bảo chị số cao, nay mới cắt được
tiền duyên. Tiền duyên là kiếp trước có một người yêu
chị lắm nhưng không lấy được chị nên biến thành cái
bóng ngày đêm ám ảnh chị. Mấy đám hỏi chị đều không
thành. Chẳng hiểu nghe ai mách, bà mẹ lén cắt một mớ
tóc của chị, dâng lễ, cầu xin người kia hãy buông tha
cho chị đi xây dựng hạnh phúc gia đình.
Chị bước chân về nhà chồng như số phận
đã định.
Nhà anh Hoàng nghèo, một mẹ, một con. Cụ
giáo mất từ năm anh chưa đầy tám tuổi. Con một nhưng
khi đất nước bị quân thù xâm lấn, bà mẹ vẫn cho ra
trận đánh giặc. Giặc tan, Hoàng trở về sống với mẹ
già và tiếp tục công việc một anh giáo làng.
Làm vợ anh, chị mới bắt đầu "tìm
hiểu", thương anh và ngày càng tha thiết yêu anh. Anh
là của chị. Cuộc đời chị từ nay không thể thiếu vắng
anh... Hạnh phúc ngọt ngào, ngây ngất. Thằng Hạnh ra đời.
Dường như chị chẳng còn ước mơ gì hơn. Bà mẹ chồng
cũng vậy, trước khi nhắm mắt, cụ nắm chặt tay đứa
cháu đích tôn, cười mãn nguyện. Tên con là do anh đặt.
Anh bảo: “Người ta sống phải có hạnh. Lâu nay ít người
nhắc đến đức hạnh, phẩm hạnh, tiết hạnh... Rồi anh
im lặng nhìn ra sân. Anh có dáng ngồi rất riêng, đầu
hơi nghiêng và đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn bên
trái. Cái nhìn thông tuệ, nửa như mơ màng, nửa như chăm
chú dõi theo một cái gì đó ở chính trong lòng mình mà lại
đang chơi vơi trước mắt.
Ngày ngày, Hoàng đến trường dạy học.
Quần áo xềnh xoàng, chiếc xe đạp cọc cạch. Anh dạy vật
lý, giáo viên giỏi toàn tỉnh. Một hôm, cô giáo sinh vật
lớp bên bị ốm nghỉ liền mấy ngày mà không có người
dạy thay. Hoàng bảo: Để tôi đỡ cho một tiết. Các em học
tới đâu rồi? Lớp bọ cánh cứng à? Hoàng rủ mấy em học
sinh ra đồng. Hôm ấy, cả lớp trố mắt nhìn khi thấy
trên tay thầy Hoàng cả một bộ sưu tầm những con bọ
đa, cánh cam, xén tóc, bần bật, niềng niễng... Những người
bạn đồng quê thân thiết của lũ trò nhỏ ấy như lần
đầu hiện ra với biết bao điều lạ! Hết tiết học, thầy
Hoàng còn kể các em nghe ở rừng Trường Sơn, bọ cánh cứng
nhiều loại phong phú lắm... Đáng nhớ nhất là chuyện một
buổi chiều, Hoàng đang đi trinh sát thì gặp máy bay Mỹ rải
chất độc màu da cam. Anh nằm sấp mặt dưới đất, ho sặc
sụa. May sao có đàn bọ cánh cứng từ đâu bay đến. Chúng
bay là là, đông vô kể, như một dãy lụa hồng rập rờn
khi cao khi thấp. Hàng ngàn bộ cánh nhỏ vỗ liên tục làm
tan loãng hơi độc và dường như những sinh vật nhỏ bé
ấy còn tiết ra một chất gì đó khiến các anh dễ thở
hơn.
Cho đến khi Hoàng và hai anh nhặt súng đứng
dậy loạng choạng bước đi, các anh sửng sốt nhận ra
hàng ngàn con bọ cánh cứng rã cánh nằm chết đầy hốc
cây, núi đá.
Trẻ em mến thầy Hoàng, các cụ già trong
làng cũng quý trọng thầy giáo Hoàng lắm. Không chỉ vì
cái đức gia tiên để lại mà còn vì anh giáo tuổi chưa
nhiều đã biết cả chữ thánh hiền. Chẳng hiểu tự học
từ bao giờ, hoành phi, câu đối trong đình chùa, Hoàng có
thể vừa đọc vừa dẫn giảng ý nghĩa, sâu xa uyên bác.
Nhà nghèo, nhưng trong căn phòng thoáng mát của anh xếp đầy
sách báo. Đôi khi cô nhân viên bưu điện mang đến cho anh
một bức điện báo mời ra lãnh nhuận bút của một tờ
báo nào đó. Những tờ giấy nhỏ này làm cho dân làng tuy
nghèo nhưng rất tôn sư trọng đạo càng quý mến anh hơn.
Dĩ nhiên không phải ai cũng nghĩ như vậy. Trong làng, có
người cho Hoàng là "ngộ chữ". Họ bảo chữ nghĩa
nhiều thì có mài ra mà ăn được không? Nhà anh cái sân
chưa lát, ngõ chưa xây cổng, thời đại này mà ra đường
vẫn đạp cái xe cọc cạch?
Kệ cho người ta nói, chị càng thương
anh, càng yêu anh. Từ ngày nghỉ hưu anh càng có nhiều thì
giờ đọc, viết và đi chơi xa, một ham mê vốn có từ
ngày bé.
Cảnh đẹp trong vùng, các di tích, lễ hội...
Anh đều có dịp thăm thú. Nơi gần, anh đạp xe. Nơi xa,
anh đáp tàu hoả, vẫy ô tô. Năm ngoái, anh có món nhuận
bút hơn triệu đồng tiền dịch một cuốn sách thiếu
nhi. Chị khấp khởi mừng định bụng may thêm cho anh bộ
cánh mới. Chẳng ngờ anh bàn đi thăm mấy người bạn chiến
đấu cũ và cũng là tiện dịp làm một chuyến du lịch
xuyên Việt. Anh đi tận Minh Hải, đi tận Kiên Giang! Đúng
một tháng trời, chị ở nhà vừa lo vừa giận. Nhưng vừa
thấy anh trở về, khoẻ mạnh, tươi tỉnh, tíu tít kể với
bạn bè những điều hay, cái đẹp thu lượm được trong
chuyến đi, cùng những bức tranh anh vẽ, những bài thơ
anh làm thì chị chỉ biết vui lây? Có phải ai cũng được
bạn bè yêu quý như chồng chị? Có phải nhà nào cũng đông
khách như nhà chị, những người khách xuề xoà ngồi
trên chiếu, người trong làng, người từ bên kia sông bơi
thuyền sang...
... Chị kể tiếp cho cụ Toàn nghe:
Hôm mới đây, chẳng hiểu sao vừa nghe anh
nói định đi chơi miền Trung, con đã có ý gàn. Con nói bỏ
nhà bỏ cửa, bỏ vợ bỏ con. Hám đi tận những đâu!
Anh cười miền Trung nhiều cảnh đẹp lắm.
Nghe đồn buổi sáng mùa hè đứng trên đỉnh Chúa mà
phóng tầm mắt nhìn ra biển Đông, xem mặt trời, tuyệt vời!
Chị bĩu môi:
- Mặt trời mọc thì sáng nào chả thấy,
đứng ở cổng đồng làng mình, cứ gọi là nhìn mỏi mắt?
Anh lại cười, tính anh vốn hiền lành, dễ
thương như thế đấy.
- Mặt trời mọc trên cánh đồng làng cũng
đẹp lắm chứ?- Anh nói – Nhưng không ai cũng dễ dàng
lên tận đỉnh núi Chúa... – Anh lẩm bẩm, như nói với
chính mình, chỉ đủ cho mình nghe - Thế mới gọi là du lịch,
là đi chơi, đi xem, ngắm. Nâng cao sự hiểu biết, thoả
mãn nhu cầu thưởng thức cái hay, cái đẹp. Mà cái hay
cái đẹp thì vô cùng...
- Anh nhiều tuổi rồi, lại đi có một mình, đường
xa... Phải giữ gìn sức khoẻ.
- Anh gật đầu. Thế là chị đồng ý cho anh đi. Anh cầm
tay chị, buột miệng:
- Em yên tâm. Anh chỉ đi lần này nữa là lần cuối
cùng.
Và anh lên đường.
Khác hẳn mọi lần, chị theo tiễn anh ra tận
nhà ga. Chị cẩn thận lên tận toa tầu, đến tận chỗ
anh ngồi, còn dặn anh thanh niên đi cùng chuyến ngồi kế
bên: Nhà tôi đi một mình, cần mua bán thứ gì anh giúp
cho. Lần thứ hai, anh gở miệng:
- Em yên tâm về nhà với con. Anh chỉ đi lần
này nữa là lần cuối cùng.
Ấy là sau này, chị nhớ lại mới nhận
ra tất cả những điều như có ai xếp đặt từ trước
như số phận anh chị đã an bài trước cả rồi. Ngay từ
buổi về nhà chồng, chị đã lỡ bước, để tuột chiếc
dép phải xuống đò nhặt lên. Có ngờ đâu câu chị nói
anh bỏ cửa bỏ nhà, bỏ vợ bỏ con mải vui tận đâu xa,
lại là điềm báo trước giờ phút cách biệt hôm nay!..
Cũng may mọi việc nhờ cụ Toàn xếp đặt
chu đáo. Cụ Toàn trao đổi với chị:
- Anh ấy đã đến đây thì cứ để ở đây.
Nguyện vọng của anh ấy, cũng là cái số, cái duyên với
núi Chúa này.
Cụ Toàn cùng mấy người dân làng Mực hạ
cây cộc xuống. Những hạt mùn cưa vừa tơi ra, một mùi
hương toả thơm ngát. Thì ra một loại gỗ trầm. Gỗ cây
cùng đống củi ông cụ dự trữ sau nhà đủ cho một cuộc
hoả táng. Đến chiều thì mọi việc chuẩn bị xong. Khi
ngọn lửa bốc cao, chị phục xuống, hai tay cào đất đá,
gào lên:
-Ơi mẹ ơi, mẹ chẳng thương con, mẹ chỉ thương anh Hoàng
thôi, mẹ gọi anh ấy đi với mẹ bỏ mặc con sống một
mình, mẹ ơi?
Chị khóc thảm thiết: anh Hoàng!
Đã mấy lần chị muốn nhảy theo vào lửa
nhưng bàn tay thằng Hạnh cứ nắm chặt lấy tay chị, chị
ôm con vào lòng, nước mắt tuôn rơi.
Ngọn lửa hoả thiêu cháy đượm một ngày
một đêm. Suốt một ngày đêm, chị không rời xa đống lửa.
Chị nghĩ về đời anh, về những ngày tháng hạnh phúc sống
bên anh.
Như biết bao người khác, anh sống giản dị, hiền lành.
Anh đã ra trận và khi trở về lại chăm chỉ làm lụng,
vun đắp cho làng xóm quê hương. Như ngọn cỏ lá cây anh
mọc lên từ đất, làm đẹp cho đất, cho môi trường, giờ
đây lại trở về với đất.
Một anh thanh niên dân chài nói:
- Nghe chuyện ông Hoàng, chỉ riêng cái
tính ông ham đi du lịch tôi đã rất mộ. Nếu biết sớm,
tôi xin cứ để nguyên cây cộc, đưa ba nhát rìu tạc pho
tượng. Coi đã con mắt...
Nhưng bà con làng Mực vẫn nghĩ theo nếp cũ. Nhiều người
bảo: Chết như ông Hoàng là linh lắm. Rồi ông sẽ phù hộ
cho vùng núi Chúa này được mát mẻ... Chị vẫn ngồi đấy,
vô cảm. Những câu nói, những lời bàn tán thì thầm như
gió thoảng qua tai.
Sáng nay, mẹ con chị xuống núi, trở về
nhà.
Thằng Hạnh đi bên mẹ, hai tay bê hộp gỗ
nhỏ, trong đựng cốt tro.
Từ biệt núi Chúa, chị dàn dụa nước mắt.
Thế là từ nay, mẹ goá con côi.
Chị ngồi xụp xuống, chấp hai tay lạy cụ
Toàn hai lạy, miệng nói:
- Con cắn rơm cắn cỏ đội ơn cụ suốt
đời.
Cụ Toàn nâng chị đứng dậy, dịu dàng:
- Sao con lại nói thế...
Cụ nghẹn ngào, chỉ tay:
- Con nhìn kìa...
Chị nhận ra dân làng Mực đang đứng rất
đông như có ý đợi chờ. Khi mẹ con chị bước tới thì
thấy một cái miếu nhỏ dựng ngay trên gốc cây cộc. Miếu
dựng sơ sài nhưng đẹp như một ngôi chùa một cột. Bên
trong, đèn nến, hoa quả đầy đủ. Chính giữa là tờ giấy
đỏ, nét chữ mực đen óng ánh “ Đại Hoàng linh vị".
Miếu thờ anh, anh Hoàng!
Chị quỳ xụp xuống chân miếu. Anh Hoàng
ơi, thế là anh toại nguyện nhé. Từ trên núi này anh tha
hồ nhìn ra biển khơi, ngắm mặt trời mọc.
Đường xuống núi thấp dần, thấp dần.
Trước khi vào đoạn rẽ, hai mẹ con đứng lại một lần
cuối, nhìn lên. Vẫn thấy đông đảo bà con dân chài
quanh ngôi miếu. Vẫn thoảng bay mùi khói hương vương vấn.
Trời trên đỉnh núi chúa vòi vọi, bao la. Có hai người
khách nước ngoài đang trèo dốc lên núi cao. Gặp nhau, anh
thanh niên địa phương dẫn đường giới thiệu với chị:
- Khách du lịch. Họ bảo nghe nơi đây mở
thêm tuyến mới, nhất định đòi đi.