Bà Hảo bị mù cả hai mắt từ khi tôi chưa
ra đời. Tôi và cháu nội bà - cái Hoa - cùng sinh một năm.
Bà Hảo đón cái Hoa về nuôi mà không chịu ra thị trấn
với bố mẹ nó. Thế là cái Hoa trở thành bạn thân thuở
bé của tôi. Chúng tôi quấn quýt với nhau như hai anh em ruột.
Hàng ngày tôi đều sang với cái Hoa và hai đứa thường bí
mật bày ra đủ trò tinh quái. Bà Hảo ngồi ở bờ hiên
và bà luôn luôn tìm được việc gì đó vừa làm vừa
canh chừng chúng tôi. Bà biết khi nào chúng tôi đang ở gần
bờ ao, gióng lên một câu thật nghiêm:
- Cả hai đứa quay vào! Cấm chỉ ra bờ
ao.
Tôi và cái Hoa chỉ còn biết lấm lét
nhìn nhau phục tài bà. Có lần chúng tôi vờ im lặng đến
cạnh bà. Đang yên trí là bà Hảo không biết thì tiếng
bà thản nhiên cất lên:
- Giận gì nhau mà im như thóc thế?
Chúng tôi phá lên cười. Bà Hảo mắng
yêu:
- A, gớm cái quân này, định trêu bà phỏng.
Chúng mày có độn thổ bà vẫn biết để moi lên như moi
khoai ấy.
Chúng tôi bèn mỗi đứa một bên áp vào
ngực bà:
- Làm sao bà trông thấy chúng cháu?
- Lớn lên khắc biết - bà Hảo chớp chớp
cặp mắt - người ta chẳng ai chỉ toàn gặp rủi đâu.
Chúng tôi chỉ cảm nhận từ lời nói của
bà một điều gì đó mơ hồ mà thiêng liêng. Điều chắc
chắn là bà Hảo không thể nhìn thấy chúng tôi nếu bà
không yêu chúng tôi như những báu vật.
Lớn lên, đứa trước, đứa sau cả tôi
và cái Hoa cùng ra thị trấn, cách làng đúng một ngày xe
ngựa.
Thời gian đầu chưa quen môi trường mới,
cả hai đứa thường xin bố mẹ về làng thăm bà. Khi bác
xà ích vui tính và tốt bụng ghìm con ngựa để tôi và
cái Hoa nhảy xuống, đã thấy bà Hảo chống gậy chờ sẵn
ở đó. Chúng tôi, mỗi đứa một bên dìu bà về nhà. Bà
Hảo bảo bà đã nghe thấy tiếng lọc cọc, lọc cọc của
chiếc xe ngựa từ trong giấc mơ của bà những đêm trước.
Sau này tôi mới biết, chiều nào bà cũng đợi chúng tôi
lại nơi chiếc xe ngựa dừng trả khách ở điểm cuối cùng.
Những chuyến thăm bà Hảo của chúng tôi
thưa dần. Cả tôi và cái Hoa đều có lũ bạn mới và con
đường về làng, vẫn chỉ một ngày xe ngựa, trở nên xa
mù mịt. Thảng hoặc có giỗ, tết… chỉ mình cái Hoa
theo bố mẹ về. Nhưng nó lại đi ngay. Nó bảo bà Hảo rất
nhớ tôi và mong tôi học hành cẩn thận. Ban đầu tôi đón
nhận điều đó với một chút ân hận vì không về thăm
bà. Nhưng rồi tôi quên dần nhiều thứ trong đó có cái
làng hẻo lánh của mình, nơi bà Hảo vẫn ngày đêm nghe
tiếng lọc cọc của xe ngựa.
Tôi và cái Hoa cùng đỗ đại học và ra
thành phố. Giờ đây nơi chúng tôi trở về hàng tuần,
hàng tháng là cái thị trấn nhỏ ồn ào và bụi bặm.
Làng nhỏ của tuổi thơ dường như biến mất trong ký ức
tôi. Thảng hoặc nhớ về nó, tôi cười bởi một ý nghĩ
ngạo mạn rằng, khốn khổ cho tuổi thơ tôi sinh ra ở một
rẻo đất tối tăm, nghèo khó làm vậy. Ngay cả cái Hoa cũng
không đủ kiên nhẫn khi có lần nó bảo tôi: "Bà tớ
lẩn thẩn rồi. Lúc nào bà cũng coi hai đứa mình chỉ bằng
củ khoai ấy".
Tôi nhếch mép như muốn bảo: "Người
già mà".
… Không ngờ còn có ngày tôi thất thểu
trở về làng nhỏ. Dường như khi vấp ngã trên đường
đời người ta mới thấy hết niềm hạnh phúc lớn lao của
những năm tháng sống trong sự đùm bọc của người khác.
Với tôi có lẽ không chỉ có thế. Một cái gì còn sâu
xa hơn cả sự che chở. Đó là hành trình đi tìm lại
chính mình.
Vẫn bác xà ích năm xưa, thêm vào quãng thời
gian hơn 10 năm nhuộm lên mái tóc và chòm râu của bác.
Duy cặp mắt bác là vẫn linh hoạt, thấu hiểu và hóm hỉnh
như ngày nào. Chỉ thoáng qua bác đã biết tôi đang trong tâm
trạng của kẻ vừa nếm thất bại. Bác cười khà khà:
- Cái cậu bé tuấn tú, nhanh nhẹn và đa cảm
của tôi ngày xưa đâu rồi nhỉ? Sau hơn 10 năm cậu ta cứng
cáp thế này sao?
- Thưa bác - tôi nói nhỏ - xin bác cho xe chạy
chầm chậm một chút được không ạ…
- Cũng chả thể nhanh được nếu so với
ô tô, máy bay… cậu cứ yên trí. Rồi cậu xem, có những
thứ càng nhanh càng hỏng!
Câu nói đầy ẩn ý của bác xà ích càng
làm tôi buồn. Chiếc xe lọc cọc lăn bánh, đều đặn
như tiếng gõ nhịp thời gian, vang lên một cách da diết.
Lạ kỳ thay, y hệt như cậu bé chìm dần vào giấc ngủ bởi
lời ru ngọt ngào, lòng tôi cứ dần yên tĩnh trở lại. Tôi
hơi khép mắt để cảm nhận được cả mầu thời gian
trong suốt, bị khuấy động bởi những đốm nắng tinh
nghịch. Tôi đã trở về được với thời gian của ký
ức. Sau rất nhiều năm, bầu trời trong xanh trước mắt tôi
lại trở nên bí ẩn, đầy vẫy gọi.
Xen vào tiếng lọc cọc, là lời bác xà
ích già:
- Tôi chỉ chờ nốt cái ngày này để
đưa cậu về. Sau đây tôi xong việc. Tôi muốn dành ra ít
thời gian để đếm lại những ngày tháng mình bỏ sau lưng.
Tôi choàng tỉnh.
Vậy ra tôi là người khách cuối cùng
trong cuộc đời xà ích của bác. Điều này như đã được
định trước khi tôi chợt nhớ ra, có biết bao người
vĩnh viễn tôi không gặp lại. Nếu họ không còn lại như
một vệt sáng trong ký ức tôi, điều đó nghĩa là tôi
thêm một lần cô đơn trước cuộc đời.
- Cậu làm được nhiều việc chứ? - Bà
xà ích đột ngột cất tiếng.
- Chả biết thế nào mà nói bác ạ - Tôi
đáp.
- Ừ, chả biết thế nào. Phải cơn u mê
thì càng làm càng gieo tai hoạ cho người khác. Có những
người sống chỉ vì một việc không thể bỏ dở khiến
họ phải sống đến cùng - bác xà ích cười khà khà -
tôi ít chữ, cậu bỏ qua.
Bác xà ích đột ngột ghìm cương ngựa. Tôi
cũng đột ngột nhận ra cái bến nhỏ năm nào. Giờ đây
nó trở nên hiu quạnh vì hầu như người ta không còn
thích đi xe ngựa. Tiếng ô tô, xe máy… đã gầm réo
không chỉ trên những con đường làng gầy giơ xương, mà
cả trong niềm khắc khoải của những con người suốt đời
tự đóng kín mình, như là tín hiệu của một nền văn
minh vừa hấp dẫn, vừa đáng sợ.
Tôi uể oải xuống xe. Bác xà ích nhanh
chóng tháo ách xe khỏi vai con ngựa già rồi trịnh trọng
tuyên bố:
- Từ hôm nay mày được tự do. Có oán hận
gì tạo thì xuống âm phủ tính sổ sòng phẳng.
Bác quay sang tôi:
- Cậu giúp tôi một tay.
Tôi làm theo yêu cầu của bác xà ích,
cùng đẩy chiếc xe vào một khu vườn. Bác nói vui:
- Tôi sẽ sửa lại làm cỗ xe chở linh hồn
mình về Tây Trúc.
Gần như ngay lúc ấy, tôi nghe thấy một
âm thanh rất lạ. Ban đầu nó còn mơ hồ. Càng về sau
càng rõ dần để thành tiếng khua gậy tìm đường của
ai đó. Bác xà ích cũng dỏng tai rồi cười hồn nhiên:
- Bà cụ lại chậm hơn hôm qua rồi.
- Bác nói ai? - Tôi hỏi cuống cuồng.
- Bà cụ mù. Hôm nào cụ cũng khua gậy ra
đây đứng đúng vào lúc xe của tôi dừng bánh. Độ gần
một năm nay cụ yếu dần nên mỗi hôm lại chậm một
chút.
Tôi lại dỏng tai đón nhận thứ âm thanh
giống như dao động tắt dần của quả lắc đồng hồ. Lát
sau thì bà Hảo hiện ra ở lối rẽ. Bà dò đường một cách
chật vật, toàn bộ tinh lực hướng về bến xe ngựa. Không
cầm được, tôi lao như tên bắn về phía bà:
- Bà! - Tôi nghẹn ngào - cháu bị người
ta phản bội rồi…
Bà Hảo lần lần từ đầu đến vai tôi
như thể xem bà có đang mơ không rồi cười một cách mãn
nguyện:
- Bố mày, lớn thế còn khóc như con nít
ấy. Dễ thường suôn sẻ cả có khi nó chả thèm biết
bà sống hay chết.
- Làm sao bà biết điều đó? - Tôi hỏi
bà bằng nỗi sợ hãi.
- Lớn lên khắc biết - bà Hảo vẫn trả
lời tôi như từng trả lời hồi tôi còn bé.
Tôi có cảm giác bà Hảo cũng thuộc số
người quyết sống chỉ để làm việc không thể bỏ dở.
Bởi vì ngay sau đó bà bảo tôi:
- Từ ngày mai bà có thể chết mà không
luyến tiếc điều gì.
Tôi đứng chết lặng, cảm thấy vang lên
trong lồng ngực tiếng gõ da diết và tàn nhẫn của thời
gian. Trước mắt tôi giờ đây là những bến thời gian trắng
xoá mà tôi sẽ phải một mình vượt qua…/.
Tạ Duy Anh