Lần đầu họp các cựu thanh niên xung phong chống Mỹ,
cứu nước tỉnh, Hương không dự. Đơn giản chỉ là
không nhận được thông báo. Bởi từ khi vào trường Phật
học Hà Nội, rồi về trụ trì chùa Yên, Hương hầu như
chưa gặp lại một ai trong đại đội thanh niên xung phong
tỉnh những năm chống chiến tranh phá hoại ác liệt của
Mỹ. Đến lần họp thứ hai hạnh ngộ sao Hương có việc
lên chùa Côn Sơn. Trên chuyến xe khách từ thành phố đi,
Hương ngồi cạnh một anh người đầm đậm, nói đầy mồm
lưỡi, lại thêm cái tật ngọng dính ngọng dáng, toàn
nói "nờ" ngắn thành "lờ" dài. Nhưng chỉ
có thế Hương cũng không hỏi bản quán nơi nao. Chỉ đến
khi thấy anh ta kéo liền một lúc ba mồi thuốc lào, lại
toàn hút xong nuốt cả khói, Hương mới lờ mờ trong trí
nhớ một nét quen quen, ngày xưa ở đơn vị cũng có anh
hút thuốc lào kiểu nuốt cả khói thế này, vội sây hẳn
người nhìn thẳng vào khuôn mặt chữ điền có cái cằm
lẹm của anh, và bỗng thốt lên: "Ôi, anh Thành có phải
không?". Người đàn ông đánh rơi chiếc điếu cày cầm
trên tay, vội xoay hẳn người lại như dang cả hai tay ôm
lấy người đàn bà mặc áo cà sa, đầu chít khăn nâu, chỉ
để hở khuôn mặt có đôi mắt nhỏ và dài, với hàng mi
cong thanh mảnh: "Hương, đúng Hương không?". Rồi
rất nhanh, người đàn ông không nén được niềm vui gặp
lại, hai tay đặt lên vai ni cô như thể chẳng hề có gì
ngăn cản giữa kẻ phật người đời, nhưng cũng không
làm hành khách trên xe ngỡ ngàng, vì họ hiểu hai người
kia hẳn đã có với nhau một thời kỷ niệm. Cuộc gặp
ngắn ngủi trên chuyến xe khách đủ đem đến cho hai người
nhiều thông tin về bạn bè, đồng đội. Nhất là Hương,
sau gần hai chục năm gần như cách hẳn với cuộc sống
trần tục ngoài đời, hoặc có chăng cũng chỉ là những
cuộc gặp mang đậm chất hành sử lễ giáo nhà Phật, chứ
rất ít khi nói tới chuyện tình cảm, lại càng không thể
nhắc tới những lời hẹn hò yêu đương, thì cuộc gặp
Thành trên chuyến xe hôm ấy như làm sống dậy trong cõi
lòng cả một thời tuổi trẻ. Nhưng điều đáng quý hơn
là sau cuộc gặp Thành có mấy tháng, Hương nhận được
giấy mời đích danh: "Đồng chí Đỗ Thị Thu Hương,
tới dự cuộc gặp lần thứ hai các cựu thanh niên xung
phong chống Mỹ, cứu nước tỉnh". Cầm tờ giấy trên
tay Hương nửa muốn đi, nửa e dè ngài ngại. Đi nhất định
là vui rồi. Sau mấy chục năm hơn trăm con người trong đại
đội thanh niên xung phong đầu tiên của tỉnh thành lập
tháng ba năm ấy, mãi bây giờ mới có giờ mới có dịp gặp
lại nhau. Ai mất, ai còn, ai giờ có gia đình đoàn tụ, ai
đang phải gánh chịu bao thiệt thòi của di chứng chiến
tranh. Có người Hương biết, nhưng cũng còn nhiều trường
hợp Hương chưa tường. Ngay chính người mà mấy chục năm
rồi Hương chưa khi nào nguôi nỗi nhớ, vậy mà hôm gặp
anh Thành trên chuyến xe lên Côn Sơn, Hương săn đón hỏi
gần hỏi xa: " Anh có biết tin tức gì về anh Vạn
không?". Thành ngớ người ra mươi giây, rồi buột miệng
hỏi: "Tôi tưởng cô phải biết tin cậu ấy hơn tôi
chứ?". Hương phải thú thực với anh rằng, sau trận
máy bay bắn tên lửa ở Khe Sâu đêm hôm ấy, chúng em
không còn mặt mũi nào nhìn bạn bè đồng đội nữa, anh
Vạn bị chuyển sang đơn vị khác, lùi sâu vào phía trong.
Thời kỳ đầu dăm ba tháng còn có thư ra thư vào, nhưng rồi
cùng với những trận đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ,
thư từ đến tay nhau cũng thưa dần. Còn Hương. Những gì
dành cho Vạn chỉ còn biết ủ kín trong tâm khảm, để mỗi
lần nhớ đến khắp người lại như ngất ngây say trong
niềm sung sướng đến tột cùng, và liền sau đó là một
nỗi buồn đau quặn thắt nơi lồng ngực. Nhưng không biết
thì thôi, đã biết tin có cuộc gặp như thế mà ngại
không đi, cũng thấy áy náy thế nào. Mà việc gì phải ngại
cơ chứ, số phận mỗi người đều do trời định sẵn,
không thể cưỡng lại được mệnh trời. Huống hồ
Hương không muốn cưỡng lại. Mười chín tuổi còn kém bốn
tháng, học xong lớp mười, Hương làm đơn đi thanh niên
xung phong. Được chấp nhận liền.Cũng chỉ năm ngày sau tập
trung lên đường ngay. Mười một năm phục vụ trong quân
ngũ, tròn ba mươi tuổi Hương khoác ba lô về địa
phương, không một mảnh giấy xác nhận chế độ. Nhưng với
Hương ngày đó chả là cái gì, cả nước là chiến trường,
toàn dân là lính, có ai đòi hỏi chế độ cho riêng mình.
Hương chỉ còn lại sự kiêu hãnh về những năm tháng sống
bất chấp đạn bom, đói khát và một niềm mong đợi đến
cháy lòng gửi ở nơi chàng trai miền biển có nước da
ngăm đen, tiếng nói sang sảng như tiếng sóng ngay cả khi
ngồi khuất bên bìa rừng tâm sự với người yêu. Hương
yêu Vạn bằng cả sự trong trắng của một người con gái
hai mươi ba tuổi đời, gần bốn tuổi quân, lại có học
vấn hết cấp ba với môn văn luôn đứng nhất nhì toàn
trường. Còn Vạn, Hương chỉ thấy ở anh một chàng trai
hiền lành, thật thà như đếm và sự lì lợm đến liều
lĩnh. Cũng bởi sự lì lợm, hay tình yêu đến lúc không
còn kìm nén được nữa, mà trong chuyến đi lấy gạo ở
trạm 67 về hôm ấy, đến khoảng rừng Khe Sâu, hai người
lần chần thế nào tụt lại phía sau một quãng khá xa. Trời
sập tối, đường không quen, Vạn và Hương bị lạc đường
về. Đáng lẽ ra phải tìm lối có vết chân người mà
ra, thì hai người lại dừng lại ngồi nghỉ chân trong rừng.
Và cái gì phải đến với một đôi trai gái yêu nhau đến
không thể giữ gìn được nữa, tất sẽ đến. Vạn vừa
lì lợm ôm choàng lấy Hương, rồi không thể nén lại
lâu hơn được nữa, cởi mà như dứt tung hàng cúc áo
ngoài của Hương, làm Hương bỗng phá lên cười. Nhưng rồi
chính Hương cũng oằn người lên khi Vạn đổ ập khuôn mặt
chữ điền sạm đen lên bộ ngực ngồn ngộn trinh nguyên
của Hương mà hà hít cuống cuồng. Cuộc dâng hiến thánh
thần của Hương và Vạn đang vào cao trào, thì bất ngờ
một chiếc F.111 chưa biết từ hướng nào bắn liền hai
quả tên lửa xẹt qua đầu, rơi cách chỗ hai người chỉ
chừng vài mét. Hương hoảng hồn vơ vội đống quần áo
vất tung toé cạnh chỗ nằm, cũng chưa kịp nhìn cái nào
của mình, cái nào của Vạn, cứ thế vừa té táp chạy,
vừa che lấy cái chỗ cần phải che. Còn Vạn bình tĩnh
hơn, nhưng cũng chỉ mặc vội được mỗi chiếc quần đùi
là cắm đầu chạy. Hương cứ ôm đống vải luộm thuộm
như thế chạy một mạch, thì hạnh ngộ sao, lại thấy một
vùng quang quẻ như là mặt đường. Mà đường thật. Bỗng
nghe một tiếng con gái hỏi giật giọng: "Ai? Đứng lại!
Ơ, cái Hương! Sao lại tồng ngồng thế kia, hả con
ranh?". Bấy giờ Hương mới hoàn hồn đứng sững,
ngượng không để đâu hết ngượng. Còn mấy cô gái
đang ngồi vác bom thì được mẻ cười vỡ bụng, nhất là
khi nhìn thấy Vạn hớt hơ hớt hải đi ra với độc mỗi
chiếc quần đùi trên người. Nhưng cười ba tháng, chứ
ai đóng đám mà cười ba năm. Huống hồ từ bấy đến
nay đã ba mươi năm có lẻ. Thôi cứ đi biết đâu…
Hương đến dự cuộc gặp lần thứ hai thanh niên xung
phong chống Mỹ, cứu nước tỉnh với một vẻ bên ngoài
hoàn toàn nhà Phật. Cũng tấm áo cà sa với bộ tràng hạt
màu cườm vòng quanh cổ, đầu đội chiếc khăn nâu rất
đúng kiểu nhà chùa, chân đi đôi giày vải nhẹ như mỗi
lần ni cô đi hành lễ. Nhưng trông ni cô Đàm Hương hôm
ấy như trẻ lại đến dăm tuổi. Có lẽ ở khuôn mặt
trái xoan trắng trẻo với đôi mặt nhỏ, dài và hàng
lông mày thanh mảnh như hai đường chỉ cong uốn cong.
Cũng có thể ở bộ tràng hạt như tôn thêm cái dáng cao
ba ngấn nõn nà của cái cổ rất hợp với khuôn mặt
trái xoan và thân hình cao ráo, lại thêm cái dáng thắt đáy
lưng ong. Khi Hương từ trên chiếc xe máy của một đệ tử
chùa Yên đưa đến, mọi người không khỏi ngỡ ngàng,
dù nhiều người ở đây bằng cách này cách khác đều biết
"Cái Hương giờ thành sư thầy chùa Yên rồi", nhưng
sự có mặt của Hương là điều ít người nghĩ tới. Chỉ
có một người chắc như đinh đóng cột rằng, không nhận
được giấy thì thôi, nhận được thể nào Hương cũng
đến. Dù mới cách đây năm ngày, Thành có việc ra Cẩm
Phả thăm một người có họ xa ở ngoài đó, trong khi trò
chuyện lại hoá ra ông này có quen một chú tên là Vạn,
quê ở Vĩnh Tiên, đi làm kinh tế mới ra ngoài này từ năm
1978. Thành lùi ngày về, nhờ thằng con ông cùng họ đèo
xe máy đến nhà Vạn nằm khuất trong thung lũng trên đường
xuống Cửa Ông. Một ngôi nhà xây ba gian làm theo kiểu một
thò hai chụt nằm dựa lưng vào sườn đồi, còn mặt tiền
quay ra đường ô tô luôn bị những chiếc xe chở than từ
trong mỏ ra tung lên từng nắm bụi đất, bụi than mù mịt.
Thành vừa lên dốc vào ngõ, vừa réo đúng tên ông chủ
ra mà gọi như gọi đò, nhưng cũng phải một lúc lâu Vạn
mới lóp ngóp từ đám sắn khoai sau đồi tất tả đi xuống.
Hai người đàn ông đều đã ngoài năm mươi mà vẫn ôm
chầm lấy nhau, mới hỏi được câu trước câu sau:
"Thành đấy ư. Có phải Thành thật không?". Còn
người kia:" Mày trông như ông lão ngoài bảy mươi thế
này ư Vạn!", đã vội buông nhau ra, rồi cả hai kẻ lấy
cùi tay, người kéo vạt áo lau nước mắt. Cuộc gặp kỳ
ngộ làm sống dậy trong lòng Thành và Vạn cả quãng đời
thanh xuân với bao kỷ niệm buồn vui mà dẫu có nhắc lại
cũng không biết bao giờ cho hết. Nhưng chuyện gì thì chuyện
cuối cùng họ cũng dừng lại ở Hương. Vạn chì chiết
mình: "Lỗi chính ở tôi. Thời gian ở trại điều dưỡng
Bắc Hà, lẽ ra tôi phải thư từ tìm Hương, thì tôi lại
dồn tình cảm vào một nữ y tá ở trại. Sau này biết Hương
vẫn đợi tôi chứ chưa lấy ai, tôi lại càng hối hận
đã làm hỏng cuộc đời một người con gái. Thật không
còn mặt mũi nào nhìn thấy Hương trên cõi đời này nữa".
Thành thấy Vạn nặng lời với chính mình cũng dấu biến
chuyện Hương đi tu, sợ Vạn biết lại thêm trách cứ
mình thêm nữa, chỉ nói qua với Vạn về mấy người bạn
nam chí cốt của hai người và cuộc gặp lần thứ hai của
cựu thanh niên xung phong tỉnh vào ngày ấy ngày nọ, thể
nào cậu cũng phải về đấy nhá. Nhưng riêng cuộc gặp
ấy, Vạn phải nói trước để Thành thông cảm là chưa
chắc đã về được. Ừ, hoàn cảnh gia đình. Hân, vợ Vạn,
cô y tá trại điều dưỡng thương binh nặng Hà Bắc năm
nào, bị ung thư vú mới đi chữa ở bệnh viện Hà Nội về,
giờ người vẫn yếu lắm, cơm cháo, giặt giũ chồng vẫn
phải phục vụ tận nơi. Ừ ừ, cô ấy phục vụ mình lắm
chứ mình phục vụ cô ấy được mấy. Nhưng vợ yếu
đau cũng không lo bằng lo ông mãnh đang ở dưới bếp kia.
Hử, làm sao lại ra nông nỗi ấy, mà từ lúc đến sao không
nói ngay, lại chỉ kể mỗi bệnh tình của vợ. Nói anh cũng
chẳng giúp được gì, mà có khi tôi lại thêm xấu hổ với
bạn bè, người thân ở trong quê, rằng đưa vợ con ra ngoài
"vùng vàng đen" tưởng thế nào, hoá ra lại đưa
con vào con đường nghiện ngập ma tuý. Thành nghe, từ thương
bạn quá chuyển thành giận bạn có những ý nghĩ nông nổi,
liền mắng té tát: "Mày nghĩ chúng tao là hạng người
nào hả, hả! Ở đời ai nắm tay được cả ngày. Có khổ
có hạn thì xúm nhau vào mà cứu nhau, mới gọi là anh em
chứ". Nhưng thực, khi nói thế, Thành cũng chưa biết
cách xúm nhau vào cứu thằng con Vạn mới mười lăm tuổi
như thế nào. Mà chỉ biết về đến nhà gửi ngay giấy mời
họp cho Hương, đằng sau viết thêm một câu lấp lửng
"Thể nào cũng đến, Hương nhé. Sẽ có bất ngờ cho
Hương đấy". Rồi Thành tin, không nhận được giấy
thì thôi, nhận được thể nào Hương cũng đến. Chỉ tiếc
là Vạn không về. Vạn lo về quê họp đồng đội nhanh
cũng mất ba ngày, không có ai ở nhà trông nom nổi thằng
con nghiện ngập, nhỡ nó tháo được cửa ra thì không biết
đường nào mà tìm nó chuyến này nữa. Thành cảm thông với
hoàn cảnh của bận, dốc túi còn bao nhiêu tiền đưa cả
cho Vạn, bảo cầm lấy bồi dưỡng cho vợ, thuốc thang
cho con, mình về bàn với ban liên lạc cựu thanh niên xung
phong tỉnh có cách gì giúp cậu vượt qua khó khăn này.
Thành vừa nhìn Hương đang bị mấy anh chị cùng huyện
vây chặt ở ngoài sân, vừa miên man vừa nghĩ đến Vạn,
thì dường như Hương đã nhìn thấy anh, bất chấp cả lễ
nghi nhà Phật, giơ tay gọi đến khản giọng: "Anh Thành,
anh Thành ơi! Em đây mà!". Thành bước nhanh lại chỗ
Hương. Vừa thấy anh, Hương đã hỏi dồn: " Anh Thành
bảo sẽ có bất ngờ cho Hương, là bất ngờ gì, anh nói
đi?". Nhưng Thành chỉ ư hừ, bảo Hương hãy nán đợi,
tan buổi họp, anh em ngồi lại với nhau chuyện trò lâu.
Cho đến bây giờ Hương vẫn chưa quên cuộc gặp mặt
thanh niên xung phong tỉnh năm ấy. Hay đúng hơn, Hương vẫn
chưa quên cái cảm xúc rất khó diễn tả của mình khi hai
anh em ngồi trong quán cà phê trước cửa thành đoàn, nghe
anh Thành kể về Vạn và hoàn cảnh gia đình anh ấy. Hương
nghe rất kỹ, hỏi rất kỹ cửa nhà, đường sá, xe cộ
vào nhà Vạn cách Cửa Ông bao xa. Chỉ hỏi cách Cửa Ông
thôi, vì Hương học cùng khoá với một ni cô giờ đang
ở chùa Cửa Ông, hai người hay qua lại thăm nhau mỗi khi
có dịp. Đến chùa Cửa Ông cũng coi như biết đường vào
mỏ Mai Sơn, gần nhà Vạn. Thế nên khia chia tay ở trước
quán cửa cà phê thành đoàn, anh Thành một hai hẹn nếu bố
trí đi thăm Vạn thì nhớ nhắn anh lên dẫn đi cho khỏi
phải hỏi đường, Hương chỉ dạ vâng cho anh yên tâm, chứ
không nói gì. Mà thực tình khi ấy Hương cũng không biết
nói gì, hay đúng hơn không còn lòng dạ nào mà nói. Vẫn
biết con người ta mỗi người một số, không ai cưỡng
được số trời. Nhưng Hương vẫn thấy có cái gì như sự
bất công, một người ăn lành ở hiền như Vạn mà sao từ
khi biết nhau, Hương chỉ thấy anh gặp toàn chuyện không
may. Mỗi lần như thế, Hương đều như người đứng ở
ngoài xa, chưa khi nào được chia sẻ cùng anh dù chỉ là một
lời động viên an ủi. Lòng dạ rối bời, Hương trở lại
chùa Yên trong tậm trạng mừng lo lẫn lộn. Mừng vì biết
tin Vạn vẫn còn, lại đang sống ở cách nơi Hương trụ
trì chưa đến ngày đường, lại vừa thấy phấp phỏng
lo không biết Vạn còn nhận mình nữa hay không. Nhận thì
vui quá rồi. Nhưng không nhận thì biết ăn nói thế nào.
Một ni cô được đào tạo chính quy ở trường Phật học,
nhập thiền đã hàng chục năm, vẫn còn lưu luyến bụi
trần, cất công ngày đường ngang nước đi tìm người tình
xưa cũ mà người ta lại không nhận. Nhưng bụng Hương không
phải là cái hũ nút, nên tối ấy, sau buổi cầu kinh xong,
Hương mời mấy ni cô và người quản trị chùa vào phòng
khách, nói rõ cho mọi người biết tôi nghỉ việc nhà
chùa vài hôm để ra ngoài Cửa Ông thăm một anh trong đơn
vị thanh niên xung phong ngày xưa đang bị vợ ốm con đau
ở ngoài đó. Quản trị chùa là một chị trước đi thanh
niên xung phong mấy năm, có lẽ đoán ra cái người mà Hương
đi thăm hẳn không ai khác chính là cái nhà anh cùng đơn vị
thanh niên xung phong mà Hương đã có lần kể cho chị nghe.
Chị sốt sắng xin cho đi cùng "không gì bằng đường
xa có bạn đi cùng" - Chị bảo thế. Cuối cùng Hương
cũng không thể từ chối lòng tốt của chị. Hai người
đi tàu ra thẳng Cửa Ông, lên chùa thăm ni cô Đàm Lan. Với
người bạn đồng giới này, từ ngày còn ở trường Phật
học Hương đã không giấu chuyện mình, thì ai chả có một
thời tuổi trẻ rực lửa yêu thương mà còn giấu. Thế
nên cơm trưa xong, Hương xin phép vào trong Mai Sơn, gặp hay
không, chiều tối thế nào cũng quay lại chùa nghỉ đêm
nay. Từ Cửa Ông vào Mai Sơn chỉ hơn hai cây số, đi bộ
cũng chỉ một giờ là cùng, nhưng ni cô Lan nhất định không
để ni cô Hương và chị Thư đi bộ, vội nhấc máy điện
thoại gọi taxi đưa hai người đi. Trời sui đất khiến
thế nào, chiếc xe đưa hai người đi chỉ bằng người nấu
chín chõ xôi rồi đã thấy quay ra. Hỏi thế nào Hương
cũng không nói. Còn chị Thư đi cùng chỉ lùng bụng mỗi
câu: "Mất lịch sự. Mất lịch sự quá chừng!".
Nhưng cũng mãi đến khuya, chầu kinh xong về phòng nghỉ, Hương
mới kể hết với Lan về những cái "mất lịch sự"
mà chị Thư cứ lụng bụng dọc đường về. Hoá ra, khi
hai người vào đến sân, vừa đánh tiếng đã thấy Vạn
đi ra, nhưng có lẽ tưởng hai người nhà chùa đi hành khất
nên lại vội quay vào. Thư thấy thế vội lên tiếng:
"A di đà Phật! Thí chủ cho hỏi đây có phải là nhà
ông Vạn?". Vạn vội quay ra: "Các sư hỏi Vạn nào,
hay là nhầm Vạn chăng". Thư hơi ngớ người, vì thực
chưa biết họ đương, quê quán cái nhà anh Vạn ấy ở đâu.
Thì Hương như không nén được, vội lên tiếng: "Anh
Vạn! Em, em Hương đây mà". Nhưng Vạn vẫn chỉ
dương mắt nhìn Hương như thể người từ trên trời rơi
xuống, chứ không thốt được lời nào. Hương vội bỏ
chiếc nón trên đầu, nói như đã trào nước mắt:
"Anh không nhận ra em ư!". Cùng lúc đó, có tiếng
người đàn bà mệt mỏi từ nhà trong vọng ra: "Ai đến
đấy, hả bố nó?" Hương vừa định bước vào, tức
thì Vạn đứng chắn trước mặt: "Không, tôi không
quen biết sư siếc nào. Xin các người đi đi cho". Thư
vội đặt chiếc làn đường sữa, hoa quả lên bàn, quay
ra nói như van: "Anh Vạn, đây chính là cô Hương, người…".
Nhưng Vạn đã cắt ngang bằng một câu dứt khoát: "Đã
bảo các người đi đi! Tôi không muốn gặp lại ai nữa".
Đến nước ấy thì Thư chỉ còn cách dẫn Hương đang buồn
nhão cả người thất thểu ra xe, trở lại chùa Cửa Ông.
Nhưng hôm sau, mới mờ sáng, bà lão quét chùa đã vào tìm
ni cô Lan, thưa có một ông xưng danh là Hương, đến hỏi
sư Hương và một sư nữa chiều qua có đến đây không?
Lan không hỏi Hương liệu có nên gặp, bảo ngay bà lão ra
mời ông ấy vào phòng khách. Đặt chén nước, trước mặt
người đàn ông, Lan hỏi mà như không cần người kia trả
lời: "Anh là Vạn, trước kia ở cùng đơn vị thanh niên
xung phong chống Mỹ, cứu nước với cô Hương à?". Vạn
xác nhận: "Vâng", rồi im lặng giây lát, lại tiếp
lời: "Nhà sư biết cả rồi ạ". Lan nghe bỗng cười
thầm, trong đầu vụt loé lên ý nghĩ tinh nghịch: "Bao
năm mới gặp còn làm bộ tịch đuổi người ta đi. Đằng
ấy mất lịch sự quá đấy. Giờ định đến xin lỗi à?
Không xong đâu. Còn phải thế nào nữa kia". Vạn bụng
bảo dự cứ chịu nước lép là xong, liền cất giọng trầm
ngâm: "Tôi giờ cảnh nhà thật chẳng bằng ai, vợ
thì bệnh tật nằm đấy, có mỗi thằng con lại mắc vào
nghiện ngập, ở nhà thì thôi, đi ra ngoài trông thấy
chúng bạn nghĩ mà xấu hổ. Thế nên hôm qua bất ngờ thấy
cô Hương tìm đến nhà, thật tình khi ấy tôi hơi bị sốc,
nên có phần nói năng cũng không phải. Đêm nằm không sao
ngủ được, nghĩ mà giận mình, thương Hương quá chừng.
Sáng ra nấu vội cho vợ con nồi cháo, rồi ba chân bốn cẳng
đi thẳng xuống đây, chỉ lo cô ấy về rồi, không gặp,
thì đúng lần này hận không để đâu hết hận". Người
đàn ông nói những lời từ gan ruột, Lan nghe xong không cầm
lòng, vội đặt chén nước vào tay Vạn: "Anh uống nước
đi. Để tôi mời cô Hương ra". Hẳn Lan nói với Hương
thế nào, nên chỉ thấy Hương ra phòng khách với Vạn bằng
người nhai dập miếng trầu đã quay vào bảo Lan gọi cho
chiếc taxi lên Mai Sơn.
Đến bây giờ, dẫu thời gian đã trôi đi hai năm có lẻ,
Hương vẫn chưa thể nào quên cái buổi sáng hôm ấy ở
nhà Vạn. Chưa bao giờ trong lòng Hương lại rối bời cảm
xúc yêu thương, giận dữ, bao dung, chia sẻ, rồi còn những
gì gì nữa xốn xang cõi lòng mà không sao diễn tả được,
làm Hương có lúc như không kìm nén được mình nữa. Ấy
là lúc Vạn dẫn Hương và chị quản trị chùa xuống gian
nhà dưới. Ba người đứng ở ngoài cửa, cách một chắn
song, bên trong là thằng Vang, con Vạn, đang nằm còng queo,
chân bị khoá chặt bằng cái khoá vòng xe đạp. Thằng bé
khi ấy dường như rất khó nhận ra là đứa nghiện ma tuý,
hay cơn nghiện đã qua mà nó tỉnh táo khác hẳn. Nhác thấy
có người đến, nó ngỏng dậy, rồi cất tiếng rời rạc,
khô khốc: "Cháu chào hai cô", xong lại dương đôi
mắt thao láo nhìn người bố như van xin mở khoá cho con. Vạn
như đã hiểu cái cử chỉ ấy của thằng con, vội quát:
"Nằm yên đấy. Ra để lại biến đi hút hít hả!".
Câu mắng con không lựa lời của Vạn như vô tình làm bật
ra trong hộp não của nó một cảm giác thèm thuốc, bỗng
nó oằn người, gào thốc lên: "Cho con ra. Không! Con chưa
nghiện. Con mới hút thử vài lần… Dễ chịu lắm… ắm!".
Rồi cứ thế, thằng bé đập chân, đập tay xuống cái giường
con chiếu chăn bừa bộn như cái ổ. Vừa đập nó vừa vừa
gào khóc, vừa chửi tục. Nhưng cứ sau mỗi lần đập đầu
gào khóc, thằng con Vạn lại nhìn chằm chằm về phía Hương
với đôi mặt nửa cầu xin, nửa tức giận, như có ngọn
lửa bên trong. Cứ mỗi khi bắt gặp cái nhìn của nó, Hương
lại không thể cầm lòng, vội quay ra lấy đầu khăn chấm
mắt. Giây lát Hương bảo Vạn, hay là anh cho em vào với
cháu một tý biết đâu em là người lạ đến, nó lại muốn
nói gì sao. Vạn ngần ngại một giây, rồi có lẽ không nỡ
chối từ lời thỉnh cầu bao nhiên năm mới có một lần
của Hương, Vạn chậm chạp bước vào gian bếp bên cạnh
cầm chiếc chìa khoá đi sang. Khi cái cánh cửa gỗ nặng nề
vừa hé mở, Hương lách người trườn nhanh vào, hai tay
ôm chặt lấy thằng Vang. Nó thực chưa biết người đàn
bà mặc áo cà sa kia là ai mà lại được bố mở cửa cho
vào, còn mình gào thét đến khản cổ cũng không được
đoái hoài tới; nhưng nó lơ mơ hiểu người mặc trang phục
nhà chùa đến hẳn không ngoài việc cứu nó ra khỏi nơi
này. Khi chưa mắc vào ma tuý, Vang cũng nghe nói ở chùa
này chùa kia, các thầy sư, bà vãi giàu lòng thương người
đã đưa những đứa trẻ mồ côi lang thang, và cả người
nghiện nữa, về chùa nuôi. Như hiểu được ý nghĩ của
thằng bé, Hương vừa ôm nó vào lòng vừa cất giọng
ngàn ngạt: "Cô là sư Hương, ở chùa Yên, trước cùng
đại đội thanh niên xung phong chống Mỹ với bố Vạn
cháu đây mà". Nghe đến đấy hai mắt thằng Vang như
sáng lên, ngước nhìn chăm chăm vào khuôn mặt trái xoan, dẫu
tuổi tác có làm tăng thêm những nếp nhăn, nhưng vẫn hiện
rõ một khuôn mặt nhân hậu, bao dung, vị tha. Bỗng thằng
Vang giơ cả hai tay đang còn khoá lên như muốn ôm chặt lấy
Hương, còn cái miệng lại nghếch lên van nài: "Cô
ơi, cô thương cháu, bảo bố cháu mở khoá cho cháu với!".
Bấy giờ Hương mới sực nhớ tay chân thằng bé vẫn còn
đang bị hai cái vòng nặng nề khoá chặt. Hương vừa quay
ra định bảo Vạn mở khoá cho thằng bé, thì đã nghe tiếng
Vạn nói như quát con: "Mở để mày lại biến đi hút
hít à!". Thằng bé gào lên: "Con không hút… Con thề…!".
Hương nâng đầu thằng Vang lên, nhìn thẳng vào đôi mắt
nói, hỏi: "Cháu có hứa với cô là nếu được ra ngoài,
cháu không mắc vào ma tuý nữa thì cô sẽ bảo bố Vạn mở
khoá cho cháu?". Thằng bé như đổ ập vào người
Hương, giọng lạc đi: "Cháu không hút hít gì nữa
hàng tuần nay rồi. Nhưng bố cháu vẫn khoá chặt ở trong
này, khổ lắm cô ơi!". Vạn đưa mắt nhìn thằng con
đang nằm gọn trong tay Hương, giọng bùi ngùi chứ không
quát tháo dữ dẵn như khi nãy: "Nhưng cho ra thì sớm
muộn rồi lại tái nghiện con ạ. Thà con cứ tránh xa cái
đám bạn nghiện ấy ra, yên tâm ở trong này ngày hai bữa
bố cơm nước mang xuống tận nơi". Câu nói của Vạn
như loé ra trong đầu Hương một ý nghĩ, Hương đặt thằng
Vang nằm lại giường: "Thôi cháu nằm đây nghỉ, để
cô lên nhà một lát". Trong khi Vạn còn đang mắc khoá
vào cửa, thì Hương kéo chị Thư, quản trị chùa Yên ra
góc sân. Hai người nói với nhau những gì, Vạn không tò
mò nghe; nhưng khi quay ra, Hương liền gọi Vạn lại.
Hương và Vạn, có cả chị quản trị chùa, đứng nói với
nhau rất lâu ở sân trước lúc vào trong nhà nói chuyện với
Hân, vợ Vạn vẫn còn yếu nằm trong nhà. Dẫu bao nhiêu lời
nói, bấy nhiêu cuộc bàn, nhưng cuối cùng thì cả hai vợ
chồng Vạn đều cầm lòng cho Hương đưa thằng con về
ở với Hương dưới chùa Yên, chỉ với một lý do mà bất
cứ ông bố, bà mẹ nào thực sự thương con cũng không thể
chối từ: nhà chùa vắng vẻ, yên tĩnh, xa nơi đông người
sẽ là môi trường tốt cho cháu tránh xa ma tuý, hoà nhập
cộng đồng.
Nhà sư chùa Yên vừa kể cho tôi nghe đến đấy thì đột
ngột dừng. Tôi vội hỏi: "Thế còn về sau, những
ngày ni cô Hương và chị quản trị chùa đưa cháu Vang về
làm thế nào mà cai được nghiện cho cháu, rồi lại cho
cháu đi học bình thường mỗi năm một lớp, đến giờ
cháu đang học năm cuối trung học phổ thông". Nhưng
ni cô Hương chỉ lẳng lặng chiêu thêm nước sôi vào ấm
trà, một lát nhìn tôi nói mà như hỏi: "Ông có thấy
rằm tháng Bảy người ta cúng thập loại chúng sinh không?
Đó là một tục lệ đẹp của nhà Phật. Vào những ngày
đó nhà nào cũng cúng, nhưng không nhà nào kể với nhà
nào rằng mình đã mua những thứ gì về cúng, cúng cho những
người nào. Mà họ chỉ biết mỗi việc là cầu trời khấn
phật phù hộ độ trì cho thập loại chúng sinh được thoát
khổ, thoát nạn, làm người nhân từ độ thế mà
thôi".
Tôi chỉ còn biết lắng nghe và tự hiểu từng ý trong
mỗi lời ni cô nói, để giờ viết ra giấy trắng mực
đen ngỏ hầu quý vị./.
Cao Năm