Vải màn

Tôi được bổ nhiệm làm giám đốc công ty may mặc đã hơn mười năm. Một doanh nghiệp nhỏ nhưng suốt những năm tháng qua luôn ăn nên làm ra và yên ổn với vốn, ban đầu chỉ có hơn hai chục triệu đồng. Tiền thân của nó là xưởng may thương binh và thanh niên xung phong thời chống Mỹ trở về. Các lớp thợ trước đã nghỉ chế độ thì được nhận con hoặc cháu vào thay. Chính vậy nên bây giờ chúng tôi có gần hai trăm công nhân lành nghề. Cứ chắt bóp, dành dụm, tích góp dần nên công ty có một khu nhà sản xuất khang trang đẹp. Còn văn phòng công ty được đứng tách biệt vì cũng chỉ có mười hai anh chị em nhưng vốn tài sản cố định đã lên tới gần sáu tỷ đồng.

Gần đây, chúng tôi ngoài may hàng xuất khẩu sang hai nước châu Âu còn được giao nhiệm vụ thiết kế mẫu thời trang để chuẩn bị đị dự hội chợ khu vực. Tôi suốt ngày túi bụi vì bao nhiêu công việc và cả cái đám khách đến chào hàng. Thôi thì đủ thứ lụa là gấm vóc, đủ thứ mẫu mốt với hàng trăm kiểu dáng kín đáo, truyền thống và cũng không ít mẫu hở hang. Nhiều đêm tỉnh giấc, tôi tự thấy lái xe tận cùng trong đám thanh niên mở đường Trường Sơn, lang bạt kỳ hồ mãi để sống sót trở về ngồi vào ghế giám đốc sống sót trở về ngồi vào ghế giám đốc một công ty là oai lắm rồi. Oai và nhiều lúc tôi thấy mình hình như đang được mọi người yêu mến. Văn phòng công ty có mười hai anh chị em nhưng có đến bảy người phụ nữ. Tôi luôn nghĩ phải giữ làm sao cho thuận hoà với tất cả mọi người. Bảy chị em ở đây ai cũng duyên dáng, xinh đẹp và lịch lãm. Có điều tôi cứ ngờ ngợ là tất cả trong số họ ai cũng chú ý và quan tâm đến riêng tôi. Chính điều này đã an ủi và nâng vực tôi vững vàng trong kinh doanh, tế nhị trong xử xự và bình tĩnh trước bao gian khó của đời thường.

Cách đây vài năm, cô Tuyết xinh đẹp đã xuất hiên làm mọi việc đảo lộn. Tuyết là con một ông giáo, cô đã xấp xỉ tuổi ba mươi nhưng vẫn chưa lập gia đình. Tuyết là thợ may ở công ty khác được một người ban thân của tôi giới thiệu xin chuyển qua công ty tôi. Ngay buổi đầu gặp Tuyết, trong tôi đã có một cảm giác khang khác. Nó như là xao động, là lâng lâng, là gì gì đi nữa thì quả thật tôi không rõ. Cảm giác lạ ngay từ buổi gặp đầu tiên ấy như có ma lực níu kéo nên tôi đã quyết định để Tuyết làm văn thư và giao dịch tại văn phòng. Cũng phải nói rằng, Tuyết là một cô gái xinh đẹp và rất ý tứ. Từng lời Tuyết nói ra tôi ngỡ như Tuyết đọc được mọi ý nghĩ thầm kín của tôi. Tuyết ở lại gian nhà tầng một ngay trong văn phòng công ty nên nhiều hôm đi công tác về gặp bữa tôi vẫn ăn cơm chung với cô. Từ khi Tuyết xuất hiện, tôi thấy mình như trẻ ra, yêu công việc hơn, yêu mến và đằm thắm với mọi người hơn. Tôi bắt đầu tự chăm cho mình hơn trong sinh hoạt, trong cách ăn mặc. Tôi nói với mọi người trong cơ quan hình như cũng ngọt ngào hơn.

Tôi có một bà vợ là thanh niên xung phong mở đường trở về, ốm đau luôn nên sinh khó tính, việc có Tuyết bên cạnh tôi không vui sao được. Và không biết từ lúc nào, trong từng giấc ngủ, trong công việc bận bã hàng ngày lúc nào tôi cũng vó hình bóng Tuyết. Tôi luôn nghĩ, Tuyết là một mẫu hình phụ nữ mà trời đất đã ban phát cho tôi làm bạn tâm tình. Một người đàn bà đẹp, nết na và rất đúng mực. Tuyết đã yêu ai chắc là thuỷ chung lắm.

Rồi đến một hôm, cơ quan rất vắng, Tuyết lên phòng tôi dọn dẹp, cô đi sát chỗ tôi đang ngồi và không biết vô tình hay cố ý ngực cô đã chạm nhẹ vào vai tôi. Không kìm được, tôi đã nắm chặt tay em và miệng lắp bắp gọi Tuyết… Tuyết ơi!

Tuyết vẫn đứng yên kệ cho tay tôi nắm chức vào cổ tay nõn nà, nóng rần rật của cô. Nhưng ngay lúc ấy, thay vào một nụ cười như tôi tưởng là gương mặt là đôi mắt lạnh lùng của Tuyết nhìn tôi với giọng nói rất nghiêm:

- Anh buông tay ra. Anh nhầm rồi, em không phải là loại đàn bà buông thả đâu.

Đến một sáng chủ nhật tôi có ý định là tự lái lấy xe đến thăm một người bạn cũ ở huyện. Ba giờ sáng đi lững thững từ nhà đến công ty, tôi khẽ mở cổng tới mức ông bảo vệ cũng không biết. Đi vòng qua sân, tôi đến cửa phòng Tuyết gõ cửa rất lâu thì Tuyết bước ra trong bộ váy ngắn, em hỏi:

-Ai đấy?

-Anh đấy mà, em đóng hộ anh một cái dấu vào văn bản hợp đồng. Anh có việc phải đi bây giờ- chuyện này trong lúc lúng túng tôi đã phịa ra để nói.

Tuyết mở cửa bước ra sân nhưng khép ngay cửa lại. Ngỡ tôi cần đóng dấu vào văn bản thật nên cô bược vội lên văn phòng. Tuyết vừa đi được một đoạn tự nhiên tôi kéo cửa phòng tối om của cô và giật mình vì nhận ra có một chiếc xe máy lạ. Tôi bước vào trong thì nghe tiếng người ngáy rất to. Tiện tay tôi bật công tắn điện. Chao ôi! Một gã đàn ông không rõ già hay trẻ nhưng râu ria xồm xoàm, mặt vuông như cái hộp đựng cốc chén Bát Tràng đang trần truồng nằm sóng sượt trên chiếc giường trải ga trắng muốt của Tuyết. Chiếc ga đắt tiền này tôi vừa mua ở siêu thị về để tặng em. Đất trời như sụp đổ tất cả. Và từ lúc điệm bật sáng, Tuyết đã chạy vào đứng sau tôi. Cô đứng như một khúc gỗ đã chôn chặt xuống nền nhà. Trong vô cùng yêu lặng và rùng rợn giữa đêm vắng, miệng tôi đã rít lên:

-Tôi nhầm thật.

Đúng là tôi đã nhầm thật. Ở cái tuổi tôi, có bao phụ nữ đến gần vì nhiều lẽ khác nhau. Yêu đương qua mất rồi. Hết lâu rồi. Tôi nhầm vì cứ nghĩ là em thánh thiện lắm. Chính vì ý nghĩ ấu nên tôi đã mê muội, tôn cô thành thần tượng. Và từ lúc nào tôi đã thành trò cười cho anh chị em trong cơ quan mà tôi không hề biết. Tôi cứ gục mặt kệ cho nước mắt trào ra để trôi trong bao day dứt, đau buồn. Tất cả sụp đổ tất cả đã hết. Tôi gục mặt xuống cạnh chiếc bàn gỗ như sợ cái mặt bàn cũng đánh lừa tôi, cũng sắp bỏ tôi.

Rồi mọi chuyện cứ như bát nước nguội dần, không mấy ai nhắc đến Tuyết. Tôi thì bản chất là một thằng lính, cứ chúi đầu vào công việc kinh doanh. Công ty của chúng tôi ngày một nhiều bạn hàng, đơn đặt hàng nhiều hơn nhưng tôi biết điểm dừng nên không có gì phức tạp. Mọi người như gần lại với tôi hơn.

Đến một hôm đi công ác về, tôi tằm giặt xong thì vứt bộ quần áo lót và cái khăn ngoài chậu nước ở cạnh bể nước. Hàng ngày cô gái trong văn phòng vẫn ra bể để lấy nước nấu goặc rửa tay chân. Lại một công việc kinh doanh ập đến đột xuất. Tôi phải ra Quảng Ninh suốt cả tuần mới quay về. Chính cái buổi trưa quay về công ty tôi mới nhận ra tất cả. Hôm đi vì quá vội, bộ quần áo lót vỏ lại vẫn troi lềnh phềnh trong chậu. Tôi vội bê chậu quấn áo giấu ngay vào phòng và không dám nhìn vào nó. Hoá ra từ những nụ cười ngọt lịm, từ những cái nhìn có vẻ thiết tha, từ những cái nhìn có vẻ thiết tha, từ những tiếng gọi to nhỏ nhọt ngào đều là những mục đích riêng. Rồi gộp cả chuyện Tuyết nữa, tôi mới vỡ nhẽ tất cả hết rồi. Tôi tự bảo mình: "Sao mày ngu lâu thế, cái thời đến với nhau bằng tình hết từ lâu lắm rồi. Con người với con người bây giờ cũng đã khác. Sao mày cứ ảo tưởng sẽ có một người đàn bà bay giờ yêu mày thật lòng… Tỉnh lại đi thì còn kịp"

Nghĩ tới đó, tôi không dám nhìn vào chậu áo quần mà đẩy cửa nhìn ra phương trời chiều ở phía Tây Nam. Nơi đó là những cánh rừng đại ngàn. Nơi có những dòng suối trong suối mà tôi đã từng tắm mát suốt thời trai trẻ trong cuộc chiến tranh khốc liệt để mở đường Trường Sơn. Nơi đó, ngàn vạn cô gái thanh niên xung phong sống thật lòng, yêu thật lòng và cuộc đời tôi đời nhất chỉ là những năm tháng ấy.

Tôi lại gục mặt xuống bàn nhớ về chân trời phương Nam kia. Ba mươi hai năm rồi, vậy mà chưa phút giây nào tôi nguôi ngoai những kỷ niệm xưa cũ.

Cái năm Nhâm Tý ấy tôi lái xi tải ở Tổng đội thanh niêm xung phong mở đường Trường Sơn. Cái xe Gát 59 ấy, một lần chất đầy xe lơn sống chở từ Nghệ An vào. Xe đang chạy băng băng trên một đoạn đường bằng phẳng thì tự dưng mất lái. Cái ốc hãm vô lăng vành lái ấy bật ra. Tôi nhấc bổng vành vô lăng lên và xe cứ thế lao xuống ruộng. Cũng may mà ruộng phẳng, xe chỉ đổ nghiêng làm bầy lợn chẹt nhau, chỉ chết có sáu con.

Tôi nhận kỷ lụât vì thiếu trách nhiệm, không kiểm tra xe trước khi đi nên cấp trên cắt tay lái chuyển về đại đội mười hai mở đoạn đường ở ngã ba Lúng Túng.

Mùa hè năm 1972 nóng qua, cánh thanh niên trẻ chúng tôi sau một ngày vật lộn với đất đá, bom đạn, chiều nào cũng ùa nhau xuống suối tắm. Đơn vị có hơn một trăm con người nhưng có tới tám mươi cô gái mà chưa mấy ai qua tuổi hai mươi. Nhưng về sau cứ rượt nhau, bọn con gái cũng ùa lên đầu ngọn suối chứ không chịu tắm cuối nguồn. Rượt đuổi nhau trên suối tranh nơi tắm. Khốn vì cánh con trai chỉ không đầy hai chục đứa, mà con trai là một lũ còm nhom không vào lính chiến được mới bị đẩy về mở đường.

Trong số hai chục con trai, tôi là người có giá nhất vì cao to, đẹp trai và trắng trẻo. Tôi còn một lợi thế nữa là từ một lái xe hậu cần tuyến trên rơi về cái đơn vị tóc dài này. Bởi thế cứ mỗi chiều tắm xong, không em nọ thì em kia đứng chờ giặt quần áo cho tôi. Có em đứng suốt mấy chiều cũng không được giặt lần nào, chỉ còn cách về lán gục đâu vào cài rương gỗ mà khóc. Nhưng sự ghen tỵ trong đám con gái trẻ ngày một nặng nề. Hôm nay tắm cô này được phần quần áo đi giặt. Ngày mai lại đến một em khác tranh giặt. Thế nên nhiều hôm không còn quần ào lót để thay. Đến chỗ cô này thì chỉ được nghe câu hờn dỗi: "Sang cô Mai, cô Nga, cô Thuỷ… mà lấy, ở đây chưa khô".

Rồi một trận sốt rét rừng ập đến vật tôi quỵ ngã. Chiều đi đục mìn nổ đá làm cầu tạm về tắm xong chưa kịp cơm nước gì thì cơn sốt sập đến. Sốt và nóng cứ như gan ruột đang cháy lèo xèo trong đó. Tôi vật vã suốt mãi tận khuya, hàng chục cô gái vẫn vây quanh giường tôi nằm. Y tá đơn vị thì đưa mấy viên thuốc gì vàng khè uống vào đắng nghét. Mãi tận khuya cơn sốt hạ dần và tôi ngủ thiếp đi, đến khi dậy thì lán vắng ngắt. Rừng im ắng chỉ còn tiếng suối rầu rĩ cầm canh. Thỉnh thoảng một tiếng chim lạc mẹ thả vào đêm não ruột, thảng thốt. Tôi nằm mơ màng nhớ từng gương mặt tươi trẻ của bao cô gái quanh tôi. Họ tốt quá và vô tư quá. Bữa cơm chiều nào họ cũng mang những rá rau dớn, rau tàu bay luộc nhừ nhưng xanh mướt lại cho tôi. Đào được một củ măng giang đang nằm sâu dưới đất họ cũng để dành. Mấy cô phục vụ ở nhà ăn lại thường giấu những cục mỳ luộc, tùm vào đầu giường tôi mỗi tối. Chao ôi! Đó có lẽ là những ngày tháng hạnh phúc nhất. Nhưng chiến tranh, ngày nào cũng có những cô gái non trẻ ngã xuống khi nối lại một đoạn đường, lấp một hố bom còn nghi ngút khói cho đoàn xe vượt vào Nam. Nhớ Hải hôm bị bom lia đứt cả hai chân, băng bó xong, Hải đưa tay quàng vào cổ tôi, miệng chỉ lắp bắp: "Em khát lắm! Anh cho em một ngụm nước". Khi tôi xuống suối lấy được nước chạy lên thì Hải không còn uống được giọt nào nữa…

Sao khát quá. Tôi mơ màng nhớ dưới góc bếp có một cái chum sành, thường ngày các cô cấp dưỡng vẫn đổ cơm thừa, xương lợn, xương bò vào để nuôi mẻ.

Tôi bò dậy, khẽ rón rén men theo vách nứa xuống bếp. Khi chạm vào chum, tôi dùng cái bát sắt to bên cạnh vục được một bát đầy nước mẻ. Tôi uống một hơi cạn ngay bát nước chua khắm và tự nhiên thấy khoẻ khoắn, thanh thản như là không hề đau ốm hay sốt rét gì cả.

Tôi tựa lưng, ngả đầu vào chum sành đựng mẻ, duỗi thẳng hai chân bỗng thấy mình sung sướng quá. Khổ vì mấy con bọ trong chum mẻ chưa kịp vào miệng cứ bò lóp ngót trên môi, trên cằm làm tôi khó chịu. Tôi đưa bàn tay run run lên thì cô Mai trực ban, không thầy tôi nên đi tìm. Mai xuống bếp bắt được tôi và nhìn thấy cái bát đựng mẻ để cạnh, Mai như hiểu tất cả. Cô oà khóc rồi bảo:

-Anh uống cái thứ nước quái quỷ này thì chết mất…

Trong lúc Mai dìu tôi về lán, tôi đã buột miệng bảo:

-Sốt thế này, giá ở quê được ăn một bát cá dấm nấu mẻ thì sướng quá.

Trưa hôm sau lại vào ngày chủ nhật, trong bát cơn Mai bưng lên cho tôi, có một món cá nấu dấm mẻ. Tôi ăn bát dấm cá mương nấu thật nhiều mẻ và quả sấu rừng thấy ngon quá và mãn nguyện vô cùng. Suốt mấy chục năm trời, không thể nào quên được bát dấm cá ở Trường Sơn mà Mai nấu.

Nhưng chỉ hai ngày sau, Mai hy sinh vì một mảnh bom khi nối đoạn đèo Đá Đẽo. Thuý vừa khóc vừa la:

-Mai ơi!, Mày khống sống mà đem vải đi đổi cá mương nấu dấm cho anh Kiều ăn. Hôm ấy mày đi từ mờ sáng vào bản Nà Thuông, đổi hai mét vải phin đen để lấy bốn con cá mương mà. Anh Kiều bảo rằng đó là bát dấm cá ngon nhất ở trên thế gian. Sao mày không sống mà nấu dấm cá cho anh ấy ăn…

Chiến tranh vẫn khốc liệt. Vào giữa năm 1972, Mỹ tăng cường đưa máy bay B.52 rải thảm suốt dọc đường. Đơn vị thanh viên xung phong của chúng tôi ngày một hao mòn về người và sức lực. Đói khát và mất bữa triền miên vì đường tắc. Con người hầu như thương yêu nhau hơn vì họ chỉ tình ngày giờ được ở bên nhau. Giữa lúc đang tràn ngập trong tình yêu đồng đội thì tôi được thủ trưởng cấp trên gọi lên và bảo:

-Câu Nam hy sinh rồi. Vân Nam chỉ huy quyết định cậu trở lại đội xe vận tải. Câu thu xếp đi lên Tổng đội hôm nay để nhận xe.

Nghe vậy, tôi ngớ người và nói ngay:

-Thưa thủ trưởng! Em xin ở lại đơn vị lâu dài thôi ạ! Em xin không đi lái xe nữa.

-Cậu sợ chết chứ gì? Thanh niên khoẻ mạnh như câu mà hèn thế. Sợ chết rồi phải không?

Tôi lên Tổng đội nhưng vẫn nhận lại cái Gát 59 cũ tôi từng khốn khổ vì nó. Công việc là vận chuyển lương thực, thực phẩm và đồ dùng từ tổng khoa học Binh trạm tiền phương đến tận các đơn vị thanh niên xung phong trong toàn Tổng đội. Tôi lại bắt đầu với công việc, với tay lái. Lại vượt qua vách ngầm nước xoáy, vượt bao chặng đường còn bom chưa phá. Những ngày trở lại cầm tay lái tôi nhớ đơn vị cũ, thèm nghe một tiếng cười của các cô gái trẻ làm đường đến vô cùng.

Mỗi lần được lệnh chở hàng về đơn vị, tôi như người đước trở về với chính nơi mẹ đẻ ra mình. Nhưng các lần ấy, tôi đều nhận rõ sự buồn khổ của các cô gái từng ở bên tôi. Cô nào cũng thơ thẩn nói nhỏ nhờ tôi mua cho một ít vải màn. Lần nào tôi cũng nhận lời nhưng biết mua ở đâu ra. Vải màn. Hai cái chữ đơn giản ấy cứ thành một giấc mơ trong tôi. Một giấc mơ vải màn nhưng buồn quá. Rừng thì mênh mông và cháy trụi. Xe chạy suốt cả ngày cũng chỉ gặp lính và những cô gái thanh niên xung phong gầy, đen, lam lũ với đất đá và bom đạn.

Nhiều hôm nghĩ đến chuyện vải màn, nước mắt tôi cứ trào ra. Mua vải màn ở đâu? Mà có tìm mua được thì lạicàng phức tạp thêm. Được em này mất em kia, chỉ tổ ghen với nhau, giận hờn nhau thì con khổ hơn là không có.

… Tôi đang đắm chìm trong giấc mơ vải màn. Trong bao chuyện xưa cũ thì tiền gõ cửa và tiếng nói cười của đàn bà như vực tôi về với thực tại.

Ba cô gái trong cơ quan ôm vác vào bao nhiêu là vải với đủ màu sắc sặc sỡ. Một cô nói to:

-Báo cáo giám đốc! Các loại vải may mốt thời trang đi dự hội chợ đã chuyển về rồi ạ! Xin giám đốc duyệt mẫu cho chúng em triển khai ạ.

Họ vừa bày la liệt những lụa là gấm vóc ra cái bàn lớn thì tự dưng tôi như một thằng điên. Tôi hét lên:

-Các cô lấy vải màn này ở đâu? Loại vải màn này thì thẩm thấu sao được. Tôi cần vải màn trắng hiểu chưa?

Nghe tôi nói, có lẽ các cô gái trong công ty tưởng giám đốc bị tâm thần. Họ cứ lùi dần, lùi dần, khi ra khỏi cửa thì họ chạy tán loạn. Nhưng tĩnh tâm hơn, tội chạy vội ta đóng sầm cửa, chốt khoá phía trong thật chặt rồi quay lại gục mặt vào đống lụa là gấm vóc.

Toàn thân tôi rung lên trong tê dại…

Có ai hiểu cho tôi rằng cuối mùa thu năm 1972 trên đèo Cù Lần, một biến cố làm đảo lộn cuộc đời tôi.

Chiều ấy, tôi lái chiếc xe đến binh trạm nhận hàng, vừa tới cổng thì vị Thiếu tướng binh trạm trưởng nhảy phốc lên, giật cửa xe và túm cổ áo lôi tôi xuống. Ông ta hét:

-Còn một giờ nữa thì đoàn công tác đặc biệt của Trung ường đi qua đây để vào tuyến. Tôi gọi viện trợ nhưng trong kia bị nặng quá tan tác qúa, hy sinh nhiều quá. Binh trạm không còn ai cả. Cậu có dám hy sinh cho xe đi trước dọn đường bom nổ chậm để bảo vệ đoàn công tác đặc biệt vượt qua tuyến an toàn không?

Tôi ngỡ ngàng nói:

-Thưa thủ trưởng, sao thủ trưởng lai bảo em có dám. Nhiệm vụ lái xe của chúng em là địch đánh ta cứ đi ạ!

-Tốt lắm, cậu có yêu cầu cái gì bây giờ không?

-Cần gì ạ! À có! Thủ trưởng cho em một điếu thuốc lá.

-Ngỡ chuyện gì. Bao nhiêu cũng có.

Tôi lại thủng thẳng nói:

-Thủ trưởng cho em hai chiếc thừng, hai cái xẻng. Em buộc thừng vào xẻng rội buộc vào hai bên xe để kéo lết. Nếu có bom gặp sắt thép chạm vào thì nó nổ, em và xe xuống suối. Còn nếu bom không có thì khi xe em đi qua tuyến nửa cây số này, em chạy bộ quay lại đưa đoàn xe qua. Cứ bám lên đúng cái vết xe tải của em mà đi là an toàn nhất.

Cái chiều ấy, chiếc Gát 59 của tôi kéo xủng xoảng hai cái xẻng công binh phía sau vượt qua bãi bom nhưng không có chuyện gì xảy ra. Đoàn xe công tác đặc biệt cũng đến ngay lúc xe tôi vừa qua, và đoàn đã qua bãi bom an toàn để và tuyến trong.

Đoàn công tác vừa qua, vị Thiếu tướng níu cổ áo tôi lôi vào Binh trạm và bảo:

-Đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đồng chí cừ lắm, anh hùng lắm. Bây giờ đồng chí cần cái gì thì nói.

Tôi hơi ngỡ ngàng nên hỏi lại:

-Dạ! Thủ trưởng bảo em cần cái gì ạ!

Ông nói rất to:

-Ví như đề nghị thưởng huân chương chiến công hạng nhất cho cậu chẳng hạn…

-Thủ trưởng đùa em chứ ạ! Em nhân huân chương làm gì. Cài thằng lái xe lếu láo, tầm phào như em, thủ trưởng có cho huân chương thì sau này về quê cũng không ai tin đâu.

-Hay tôi đề bạt cậu làm tiểu đội trưởng đội xe đặc biệt.

-Dạ không! Thế thì dễ chết quá. Mà em chỉ muốn sống về với đơn vị thanh niên xung phong của em thôi. Em chào thủ trưởng.

-Đứng lại! -Binh trạm trưởng hét lên.

-Tặng cậu mấy bộ quần áo mới?

-Dạ, em không lấy làm gì. Em đang còn hai bộ kia.

-Cậu không cần cái gì thật à?

-Có! Em cần một thứ nhưng sợ thủ trưởng cười.

-Cứ nói! Cái gì có ở Binh trạm mình cấp ngay.

-Dạ! Dạ. Nếu được thủ trưởng cho hẳn em một ô tô vải màn…

-Tưởng cái gì. Cậu cầm lệnh vào kho mà nhận. Chở được bao nhiêu thì tuỳ.

Xe chạy thâu sang mãi gần trưa hôm sau thì về đến chân đèo Cù Lần, nơi đơn vi thanh niên xung phong của chúng tôi đã sống những tháng ngày ngập tràn yêu thương, hạnh phúc. Tôi mường tượng ra gương mặt tươi rói mừng rỡ của từng cô gái khi tự tay được nhận vải màn.

Nhưng chao ôi! Khi về đến chân đèo thì tôi đã hiểu ra tất cả. Những trận bom B.52 của Mỹ dội xuống đã san bằng toàn bộ khu doanh trại. Tôi giật phanh tay chiếc xe, nhảy phốc xuống chạy như điên loạn dọc cánh rừng nơi đơn vị đóng quân. Đơn vị bộ đội nào chiều qua đã được điều động đến chôn cất toàn bộ anh chị em trong đơn vị. Tôi chạy dọc những ngôi mộ đắp đất đỏ lại còn chất đá mồ côi. Tôi chạy lại xe vác cuốc, vác một vác vải màn trắng. Tôi hét điên loạn: Hoà ơi! Thuỷ ơi! Choà ơi! Tuy ơi!… Các em ơi! Anh chở vải màn về cho các em đấy. Các em ở đâu ? Đến mà lĩnh vải màn. Trả lời tôi chỉ có tiếng bom gầm gào từ phía xa vọng lại.

La hét mãi, tôi quỵ xuống từng ngôi mộ, dùng vải màn trắng nặng nề tấp lên làm trắng cả một vùng rừng.

Kiều Vượng

 

     

 

Trang ch  |  English  |  Kỳ trước | Âm thanh


Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ-Hà Nội ĐT: (84 4) 9344231

Fax: (84 4) 9344230 Email:[email protected] 

Tổng Biên tập: Đinh Thế Lộc