Nhà hoạ sĩ trông ra hồ Gươm. Ngôi
nhà cổ bờ mái rêu cáu cạnh, ngói xô vỡ
nhiều chỗ. Cây sấu già sù sì đè trĩu
càng làm căn nhà thêm thấp bé. Phòng nhỏ treo
tranh, tranh bày cả tường hiên trước cửa:
tranh cánh đồng chiều quê, tranh cô gái vùng cao
gùi nước, tranh phố cổ Hà Nội ngõ nhỏ
sâu hút... Phòng tranh mang vẻ tĩnh lặng như
chính họa sĩ già đang trầm ngâm ngắm cảnh
hồ. Dòng người qua lại, mưa rơi lất
phất, có người vội vã, có người
thư thả. Ai đó dừng lại ngó tranh, bước
đi. Người đứng lại lâu hơn, ngắm.
Họ mang tranh ông đi, một người sưu
tầm chơi tranh, một nhà kinh doanh phát đạt,
một du khách ngoại quốc muốn có kỉ vật
về phong tục, tập quán xứ sở mình
đã qua. Khoảng trống để lại trên tường,
họ đã mang đi từng phần đời họa
sĩ. Nhìn khách qua đừơng, dạo hồ, họa
sĩ nghĩ ngợi: ừ, cuộc đời trôi
nhanh hay chậm là suy nghĩ của mỗi người.
Có cuộc đời băng qua vội vã; có cuộc
đời bước đi thong thả, nhởn
nha. Song nó vẫn là trôi. Ông từ một cậu
bé ở cái phố phủ Ninh Giang bên dòng sông Luộc,
tuổi thơ qua đi êm đềm. Lớn lên bước
vào cuộc chiến tranh. Lúc nửa đầu hoa râm,
đất nước thanh bình, tranh là suy ngẫm của
ông, suy ngẫm cuộc đời. Người ta nói,
đời người như bức tranh, vậy không
thể có sự trôi nhanh hay chậm, mà chỉ có bức
vẻ với mảng mầu sẫm tối, khắc
họa rõ ràng, bức nhạt nhòa không phân biệt
đâu tối, đâu sáng, hay những bức gam
màu xám xịt. Cuộc đời ta thuộc loại
bức tranh nào? Thời Phục Hưng có một họa
sĩ sống chuỗi ngày vất vưởng. Tranh
ông vẽ đổi từng bữa ăn, đổi
bánh mỳ đổi củi sưởi. Họa
sĩ chết trong cảnh đói rét. Người
đời đâu ngờ rằng, vài trăm năm
sau, một tác phẩm của ông bằng gia tài nhà
triệu phú. Cuộc đời họa sĩ đó
thuộc loại bức tranh nào?Từ góc phố
bà cụ ăn mày lần gậy bước. Cụ
già lắm, mái tóc trắng đục. Năm tháng
khắc họa khuôn mặt cụ ngàn vạn nếp
nhăn. Một cuộc đời vất vả- họa
sĩ nghĩ. Vai cụ quàng bị, gậy khua lốc
cốc, cánh tay già khẳng khiu giơ ra cầu xin
cuộc đời. "Kìa, sao cụ chìa xin cả
chốn không người, những cánh cửa nhôm
khách sạn sáng lạnh, dãy xe hơi im ỉm."
Cảnh tượng làm hoạ sĩ chạnh lòng.
" Nếu mẹ ta còn sống, nay trăm tuổi.
Mẹ ta may mắn hơn cụ già kia. Có phải
bà là người mẹ được nhận nhiều
ư? Từ chồng, từ con, từ...? Lúc mẹ
ta mất có hàng trăm vòng hoa viếng, đấy
cũng là lần mẹ được nhận
chăng?" Cụ già ăn mày bước trên phố
vắng, bàn tay cứ chìa ra. "Có người
đi suốt cuộc đời trong khổ đau.
Ông trời không công bằng, không gượng nhẹ
đến quãng cuối cùng, cái mà Người
đã tạo hóa..." Họa sĩ thấy cay cay
sống mũi!
- Lạy ông! ...lạy bà!... Xin thương kẻ
già nua...
- Cụ ơi, đường có ai đâu. Mời
cụ vào đây nghỉ chút cho đỡ rét
- Xin ông! Lạy ông...
- ấy, con chỉ đáng tuổi con cháu cụ...-
Vâng! Lạy ông... Ông thương cảnh già...
Cầm chén nước hoạ sĩ mời, tay bà
cụ run run. Run vì giá rét hay cái run trước một
tấm lòng? Một người mẹ cả đời
chỉ cho, chưa được nhận bao giờ,
nay được chút lòng đã bao xúc động?
Phút giây ấy chợt bừng lên trong họa sĩ
niềm cảm hứng. Họa sĩ cầm bút nét
phác họa cụ già hiện nhanh trên nền giấy.
Đêm ấy căn phòng họa sĩ ánh đèn tỏa
sáng suốt đêm, tâm trí ông hút vào bức phác họa.
Người vợ mấy lần thức giấc,
lo lắng nhìn chồng. Bao năm chung sống, rất
hiểu phút đam mê của người nghệ
sĩ, bà thở dài...
Sáng sớm. Hồ chưa một người dạo
ngắm Tháp Rùa. Lác đác người nhận giao
ca sớm, đi về. Hoạ sĩ ngồi lặng
bên giá vẽ. Ông say sưa ngắm bức hoạ
đã hoàn thành. Khuôn mặt, ánh mắt ngàn vạn
nếp nhăn. Nhìn bức chân dung cụ già như
thấy nỗi nhọc nhằn cô quạnh một
kiếp người. Thoáng nghe bước chân sau lưng,
hoạ sĩ biết đêm qua vợ mất ngủ,
bà lo lắng cho chồng. Hoạ sĩ đợi lời
trách móc. Im lặng... Ông quay lại... thấy vợ
đăm đăm ngắm bức hoạ. Mắt
bà như rớm lệ. Nhẹ bước lại
ông quàng tay ôm vợ, hai người già lặng ngắm
tranh. Bức họa Người Mẹ- hoạ
sĩ đặt tên như vậy, ông đem treo
trang trọng nơi phòng tranh. Bức hoạ không
có giá. Từ hôm ấy khách vào phòng tranh, ai đó
lơ đãng nhìn, kẻ dừng lại đôi
chút, người đứng lại rất lâu. Họa
sĩ thoáng nghe những tiếng thở dài nho nhỏ.
*
* *
- Chào bố!
Cái mặt nó nhăng nhít, lại thoả thuê, hắn
là gã lái tranh, kẻ mang tranh ông đi nhiều nhất.
Cũng từ hôm bức hoạ treo lên, hắn xoắn
lấy. Kể cũng lạ, thứ hắn mà
thoáng nhìn đã thấy ngay cái thần, cái giá của
bức hoạ.
- Con biết bố ghét con (hắn cười). Mâu
thuẫn! Tại sao bố lại không ưa con nhỉ?
Chính con là người mua tranh của bố nhiều
nhất, trả giá cao nhất. Con hỏi bố
nhé, không có những người như chúng con thì
các vị nghệ sĩ như bố sống ra sao?
Chưa kể chúng con còn lăng xê để bao vị
trở nên nổi tiếng. Bố sẽ quảng
bá cái triết lý và nghệ thuật của mình
đến công chúng bằng cách nào? Nếu không
có chúng con?
Hắn từng nói với họa sĩ như vậy.
*
* *
Vị khách ấy bước vào phòng tranh. Ông họa
sĩ ngồi ngắm Tháp Rùa, ngắm dòng người
qua lại như mọi khi. Khách dừng lại trước
bức chân dung Người Mẹ. Ông khách trạc
ngoài năm mươi, tóc muối tiêu, một vị
khách sang trọng. "Ngoại quốc hay người
Việt? Khuôn mặt thì điển hình người
Việt, nhưng nước da ngăm ngăm" -
họa sĩ nghĩ. Ngắm khách kỹ hơn:
-"Một khuôn mặt đàn ông không đẹp
nhưng có nét đáng chú ý, dễ gây cảm hứng
- một khuôn mặt có đặc điểm. Hình
như mình đã gặp ông ta ở đâu rồi
nhỉ, trông quen quen. Qua góc nghiêng, họa sĩ cảm
nhận, ông ta xúc động. Sau phút giây trầm
ngâm ngắm tranh, khách bước về phía họa
sĩ:
- Thua ong... Xin hoi...
Từ ngữ, cách phát âm tiếng Việt chưa
chuẩn, người ngoại quốc. Khách hỏi
về tác giả, về giá bán bức họa. Ông
ta như thoáng buồn khi nghe nói bức chân dung
không bán. Khách lại tần ngần ngắm tranh.
"ừ, đúng là mình đã gặp ông ta ở
đâu? Đôi mắt, cái nhìn...?"- hoạ sĩ
nghĩ. Lúc sau vẻ cương quyết, khách lại
đề nghị mua bức chân dung, tuỳ họa
sĩ định giá. Qua những câu lộn xộn,
thiếu mạch lạc, và xen vào những câu tiếng
Pháp, hoạ sĩ biết ông ta gốc Việt, tha
hương hơn năm chục năm rồi,
đây là lần đầu tiên về thăm quê hương
bản quán. Nghe họa sĩ nói bức họạ
gắn với một kỷ niệm, nên không bán,
ông khách rất thất vọng. Thời gian trôi
đi vẫn thấy khách lặng lẽ ngắm
tranh, mắt ông ta còn như nhoà lệ. Hoạ sĩ
chợt nhận ra, đôi mắt, cái nhìn của
khách giống cụ già trong tranh đến kì lạ.
Một lần nữa ông Việt kiều bước
về phía hoạ sĩ. Lần này ông ta đặt
câu hỏi về người mẫu- chắc bà cụ
có uẩn khúc hay hoàn cảnh éo le chăng? Cụ
hiện ở đâu? Tại sao hoạ sĩ để
vết sẫm trên trán, cần thiết phải tạo
mảng màu ấy không? Sao bàn tay cụ già trong
tranh nắm gậy vẻ không tự nhiên? Nghe khách
hỏi hoạ sĩ ngạc nhiên- ông khách quả
có cái nhìn tinh tế, am hiểu hội hoạ. Bức
vẽ gần như nguyên mẫu, trên trán, dưới
chân tóc bà cụ người mẫu có bớt
đậm, ngón tay trỏ của cụ bị tật.
Nghe họa sĩ giải thích, thần sắc khách
như khác lạ, ông ta hấp tấp hỏi, hỏi
nhiều lắm. Hoạ sĩ nhớ: "Bà lão
nói tên làng, một cái tên nôm chỉ còn trong trí nhớ
người già, tên gì nhỉ...? à đúng rồi...
làng Đún..."- Làng Đún... làng tôi đấy!
(ông khách nắm tay hoạ sĩ lắc lắc). Tôi
về Việt Nam tìm mẹ.
Hoạ sĩ bàng hoàng. Sự trùng hợp hay ngẫu
nhiên chăng? Số phận run rủi? Đúng!
Đôi mắt bà cụ, đôi mắt ông ta giống
nhau đến kì lạ. -"Cụ hiện không nơi
nương tựa. Đêm đêm ngủ ở một
chân cầu nào đó trong thành phố..." Nghe kể,
nước mắt khách chảy dài trên má. Hơn
50 năm trước họ xa nhau. Hoàn cảnh túng
đói người mẹ để lại đứa
con còn đỏ hỏn, đi Hải Phòng làm vú
nuôi, lấy tiền nuôi con và gia đình. Hơn
năm sau bỗng người làng đồn, bà
đã chết, đồn bà làm lẽ ông chủ
buôn nước mắm bà làm vú nuôi ở nhà ông
ta. Chuyện đồn về làng đến sợ.
Chẳng ai rõ ra sao, nhưng chuyện lâu rồi, bà
không có tin về làng là sự thật. Người
chồng và đứa con cũng rời làng. Số
phận xô đẩy đến mức họ trôi
dạt đến tận xứ người, một
đồn điền giữa hòn đảo nơi
đại dương mênh mông, quê hương là
phía mặt trời lặn. Trước lúc nhắm
mắt nơi đất khách, ông bố trăng trối
cho con:Về quê hương tìm mẹ. Người
con chính là vị khách ngoại quốc. Bao công sức
ông mới tìm ra làng Đún. Giờ chẳng ai gọi
tên ấy nữa. Làng khác xưa rồi, không như
lời bố ông trăng trối. Dân làng ít người
biết chuyện gia đình ông hồi đó. Sau
này bà mẹ có trở lại. Cái đận đói
bốn lăm chết vãn làng, lại bước vào
cuộc chiến tranh, mỗi người ly tán một
phương, biết sao số phận của nhau!
Không chồng, không con, không cả họ hàng gần
gũi, bà chẳng quay về làng lần nào nữa.
Ông khách ngoại quốc lang thang khắp thành phố,
đêm đêm tới các chân cầu mái hiên tìm mẹ.
Thỉnh thoảng ông lại quay về phòng tranh, thẫn
thờ nhìn bức họa. Trước bức chân
dung khách lầm rầm như là tâm sự. Nhìn vào
mắt khách họa sĩ biết, đứa con lạc
mẹ kia, dù khó khăn đến đâu cũng sẽ
tìm thấy mẹ. Xúc động, hoạ sĩ tặng
bức chân dung cho khách. Đời nghệ sĩ của
mình, nhiều lần tặng tranh, bán tranh, đây
là lần trao tranh cho người ông thấy thanh thản
nhất. Phần đời của ông có người
giữ gìn, trân trọng.
*
* *
- Kìa bức tranh đâu rồi?
Gã lái tranh sững sờ khi không trông thấy bức
họa.
- Bố nói vô giá, không bán. Chắc có kẻ trả
hơn con. Bố đá bao nhiêu? Năm hay bảy vé?
- Tôi tặng.
- Tặng?... Con không nghe nhầm chứ(?) Bố
già lẩm cẩm rồi. Vài chục vé đấy.
- Vài chục vé thôi à
Ông họa sĩ cười. Ngày ngày vẫn thấy
hoạ sĩ trầm ngâm ngắm cảnh hồ,
nhìn dòng đời qua lại. Trong mắt ông thấy
cả sự hy vọng, đợi chờ. ý tưởng
bức hoạ mới đang hình thành trong ông: một
sáng, cảnh hồ yên tĩnh, rặng cây ven hồ
đổi màu xanh biếc, những tia nắng ban
mai chiếu rọi, cụ già tóc trắng bạc,
người con trai dìu mẹ bước, nét mặt
ông ta rạng rỡ. Họa sĩ chợt nghĩ,
ai là người được nhận?9/1996
Trọng Huân