Giá
Lạnh
Nhà ông Lực hoàn cảnh lắm.
Ông có bốn người con thì cả bốn là liệt sĩ. Làng tôi
có trách nhiệm, tối tối cử tốp thanh niên đến nhà
ông ngủ cho có người có tiếng, để ông bớt cô đơn
và còn để phòng bất ngờ ông ra đi. Nhưng, sau cái
chết của vợ ông, tốp thanh niên có đứa sợ bỏ về,
chỉ còn lại mình tôi. Không phải là tôi không sợ, mà
tôi muốn biết ông có phải là người không biết lạnh
hay không? Người làng tôi bảo ông là con của người
tuyết hoặc của rái cá sinh ra nên không biết lạnh là
gì. Nhưng tôi không tin. Thịt da ai cũng là người, làm gì
có ai lại không biết đói, rét. Ở lâu lâu với ông, tôi
còn biết một cách rõ ràng, chính ông mới là người
sợ lạnh nhất làng. Cái lạnh đến với ông từ từ.
Hồi anh Tư nhà ông có giấy báo tử về, ông vẫn còn
khoẻ mạnh. Nhưng rồi, nhớ vợ, nhớ con ngàn trùng cách
biệt, từng ngày, từng giờ cứ chầm chậm "gặm
nhấm" cái béo tốt, khoẻ mạnh của ông. Năm nay, ông
héo gầy đi một chút, sang năm chút nữa, sang năm sau chút
nữa. Sau gần mười năm, cái thân thể to cao chắc nịch
của ông, nay chỉ còn là một bộ gọng, như những ống
giang to, nhỏ chắp vá hờ hửng vào với nhau. Dù vậy,
những người cùng trà lưá với ông vẫn cứ khăng khăng,
ông không bao giờ biết lạnh. Đúng là phải " mục
sở thị", phải vào hoàn cảnh của người thì mới
biết đúng về người. Để chống cái lạnh, đêm đêm
ông Lực vẫn thường xuyên đốt lửa. Đêm đêm tôi
vẫn nghe những
tiếng rên khe khẽ, tiếng
bộp, thịch, bộp, thịch
của chân tay ông “đi” lần lần xuống bếp. Đêm
đêm, ông vẫn sống cùng ngọn lửa. Một ông già lụ
khụ, ngồi lặng thinh bên bếp lửa, trong nhà không một
tiếng động, tôi nhắm nghiền mắt lại cũng thấy đôi
bàn tay xương xẩu của ông hơ hơ trên ngọn lửa; thấy
mặt ông đang cúi xuống ngọn lửa khi chúng bốc lên;
thấy lửa đang len lỏi trên bộ râu ông làm cháy từng
cái một, toả ra mùi khen khét, thơm thơm, và nghe từng
lời của ông gửi về nơi vô định.
Và đêm đêm tôi vẫn thường
nằm trùm kín chăn từ đầu đến chân để tiếng than
thở vô vọng của ông bớt lọt vào tai tôi. Nhưng hễ tôi
cứ cố nằm im là tiếng rì rầm của ông lại văng
vẳng.
- Thằng Cả, thằng Hai,
thằng Ba, thằng Tư ngủ chưa con. Hiện các con đang nằm
ở đâu? Bố kể chuyện cho các con nghe nhé. Có năm bố
cũng đang ngồi bó gối trong bếp như thế này, thì con rái
cá, thằng Tư nuôi, đến cắn vào áo bố, lôi bố đi. Các
con đang ngủ, không biết được đâu, lạnh lắm. Cái
lạnh ngoài trời thấu vào bếp, tro giạ cũng đã lạnh
ngăn ngắt. Con rái cá thì cứ kéo áo giục bố đi; còn
con ngan mẹ đang ấp mấy quả trứng thì không chịu
nổi lạnh, vươn dài cổ về phía bố kêu "khàm
khạp", như muốn thông báo cho bố biết: lạnh lắm.
Nhưng bố lúc đó không quan tâm đến mẹ ngan của
thằng Ba đâu. Bố đang sung sướng vì trời rét. Bố đang
lẩn vẩn trong đầu: lạnh đến mức ngan mẹ đang ấp
ủ phôi thai đàn con phải kêu lên thì cái lạnh này đến
cá cũng phải ngừng bơi lội. Bố thích quá, đứng dậy
ngay, lum khum mở chốt cửa bếp. Vừa mới hé được
cửa ra, gió và lạnh ập vào ngay. Lạnh lắm đấy, các
con ạ! Con ngan, theo quán tính bảo vệ đàn con vội xù lông
nằm lại trên ổ trứng, mỏ vẫn liên tục kêu "khàm
khạp". Mẹ ngan này, bố biết, thằng Ba trù tính ra
giêng bán đi để mua sách vở học tập. Nhưng gió thổi
mạnh giừơng như làm bố quên đi cái kế họach đó
của con, bước ra ngoài sân với niềm vui đang lớn
dần. Bố chưa bao giờ tin cái lạnh có thể làm chết người.
Bố ngước lên nhìn trời. Trời không một vì sao. Bố
nhìn lên nóc nhà. Nóc nhà như một xác chết im lìm,
mặc sức cho gió đông thổi vù vù
hoành hành, đùa bỡn. Bố nghe rất rõ tiếg sầm
sập của mái giạ lật từng mảng tung lên, quật
xuống; tiếng những thân tre già với những thân cành xơ
xác, cọ vào nhau rin rít như tiếng ma nỉ non khóc hờn,
khóc giận. Người yếu bóng vía lo sợ những đêm rét,
gió thổi mạnh từng cơn như vậy, ma mãnh rất hay xuất
hiện. - Ông Lực cười lên ùng ục
- Vào những ngày như vậy, chỉ có nhà mình là có
mở cửa, có ánh lửa sáng lên trong đêm, còn các nhà khác
bắt buộc phải đóng chặt cửa lại. Những người mẹ
trẻ có chồng đi bộ đội, không còn tự tin ầu ơ ru
con đầy hãnh diện mà thường ôm chặt con vào lòng như
muốn giấu đi bọn ma mãnh đang đêm có thể lẻn vào. Các
bà già nằm bó khoanh trên giường, lúc mê, lúc tỉnh,
miệng thỉnh thoảng lại rên lên, thỉnh thoảng lại ú
ớ, gào rú. Rét thế này, nhiều nhà năm nay thế nào cũng
phải gieo lại mạ, trồng lại lạc, ngô. Có lẽ chỉ riêng
nhà mình vui. Riêng nhà mình cảm ơn trời đất. Các con
ngủ nhé. Mẹ con con ngủ nhé. Cái con rái cá lại đang kéo
bố rồi. Nó kéo bố lại đống quần áo rách để bố
chọn một vài mảnh giẻ lành quấn quanh đôi chân; kéo
bố lại cái áo bện bằng rơm để bố mặc thêm vào người;
kéo bố lại với cái giỏ để bố lấy buộc vào quanh
bụng; kéo bố lại với con dao... Bố thoăn thoắt biến
vào đêm tối, hoà cùng gió, lạnh đang gào rú.
Những đêm như vậy, bố
kiếm được nhiều cá lắm. Có tháng được cả tạ cá,
chẳng ít đâu. Một tạ cá là hai tạ thóc, là bốn tạ
ngô, tám tạ khoai. Nhìn thúng cá đầy ự, bao giờ bố cũng
mơ tháng ba, ngày tám các con có khoai, sắn để ăn. Nhà
nghèo mà nhờ trời kiếm được gạo cho các con ăn thì
có sung sướng nào bằng, làm sao bố có thể còn thấy
lạnh được?
Những lần nhứ thế, mẹ
vẫn thường mắng bố:
- Bố thằng cu rõ hay. Rét đến
thối cây, thối cỏ, chết chim, chết cá mà cứ đâm đầu
đi ra. May phúc mà còn về được.
Bố cười, ngồi lù lù bên
bếp lửa như một đụn đất, trả lời mẹ:
- Thì tôi có chết đâu.
Mẹ thương bố và mắng yêu
bố đấy, các con đừng bận tâm. Chứ mẹ biết bố năm
nào chả thế. Nhà người ta có đủ gạo ăn, nhà mình
khó khăn phải kiếm cá lần hồi mới có bát gạo bữa
đói bữa không. Ấy thế mà các con đứa nào cũng lớn
nhanh và khoẻ mạnh ra trò đấy. Lúc các con được hai
ba tuổi, đứa nào cũng béo tròn như hòn đá lăn, ục
ịch. Lên năm tuổi đã biết cho tay vào chậu bắt cá, tôm.
Anh Cả các con có lần thò tay vào chậu bắt được con
cá diếc đưa lên mồm nhai. Thấy bố đi đến, anh nở
nụ cười, rộng hết cỡ miệng; những vảy cá diếc bám
quanh miệng, má lóng lánh, lóng lánh.
ục, ục, ục. Các con ơi!
Giờ các con đang nằm ở đâu? Thằng Cả nằm ở mặt
trận phía Bắc, thằng Hai nằm ở mặt trận phía Nam,
thằng Ba nằm ở mặt trận phía Đông, thằng Tư nằm
ở mặt trận phía Tây, nghe nói mãi tận bên Lào. Xa nhau
quá, các con nhỉ? Nơi các con nằm lạnh, nóng thế nào?
Nếu được ở vùng lạnh thì bố yên tâm. Bố vẫn
nhớ, mùa đông là mùa khoẻ mạnh của các con mà. Mùa
đông, dù rét đến mấy các con cũng chỉ mặc đến ba
lần áo vải mỏng là cùng. Và cứ hễ chơi đáo, chơi
khăng là các con cởi ngay cả ra, chỉ còn mặc độc cái
quần đùi. Làng cũng nói "Bố nào con nấy", không
biết lạnh là gì. Lưng các con, đứa nào đứa nấy tròn
lẳn như lưng cá trắm, bắp đùi ra bắp đùi, to, đen bóng.
Đàn ông, đàn bà ở làng người nào cũng thích ngắm, cũng
khen các con. Còn nếu các con nằm ở vùng gió nóng thì
khổ thân các con lắm. Bố vẫn nhớ, mùa hè, cứ ánh sáng
hé ra là các tế bào trong cơ thể mấy cha con ta đều
rạo rực, mô hôi rỉ ra. Cả ba tháng hè, không có ngày
nào là ngày không đổ mồ hôi của cha con mình. Mặt cha
con ta lúc nào cũng đỏ gay. Áo quần mặc trên người lúc
nào cũng ướt. Từ bố đến con không ai dám mặc quần
dài, vì chỉ mặc một lúc là mồ hôi đã thấm ướt, và
lẩn trong mồ hôi thoảng thoáng có mùi như là bùn đất,
như là tanh nồng của cá tôm bay ra. Vì cái mùi ấy, người
làng ít người đến trò chuyện lâu lâu với bố con nhà
mình. Bố biết điều âý các con ạ. Các con nên giữ
ý. Không nên đứng lâu trong đám đông. ôi, mùa hè,
khổ thân các con tôi!
Các con ơi! Giờ này, các con
đang ở đâu? Hãy biên thư về cho bố nào. Kể chuyện hành
quân, chiến đấu nào. Kể chuyện vai đeo ba lô nặng
cả tấn nào? Thằng Cả, anh tha lỗi cho bố nhá. Anh biên
thư về dặn, nhà ta có ba con đi bộ đội rồi, thằng Tư
bố xin với chính quyền cho nó được học lên cao. Nhưng
bố đã không làm được. Cũng là vì nó giống bố,
giống con. Nó cũng không chịu được nóng. Nó hay bỏ
lớp để ra sông tắm. Nhà trường đã mấy bận mời
bố đến nhắc nhở, phê bình. Nó biết vì nó mà bố
phải liên luỵ nên nhất quyết không đi học nữa. Đã
không đi học thì đi bộ đội. Phong trào của cả làng
mình thế mà. Ai mà ngăn được. Thằng Cả cứ trách
bố đi. Nhà mình tuyệt tự rồi mà. Bố cũng đau lắm,
anh Cả ạ. Công sinh thành, nuôi dưỡng biết bao là khó
nhọc của bố mẹ, các con biến thành công cốc hết
cả rồi. Mẹ giận bố đấy. Khi thằng Tư lên đường
nhập ngũ mẹ mắng bố là đồ vô tư lự đến khi mẹ
chết đấy. Sao cả bốn đứa không có đứa nào nghĩ đến
bố mẹ mà về một đứa? Có phải các con coi danh dự
của các con hơn bố mẹ? Hay các con sợ bố mẹ mất
danh dự?
Bao giờ cũng vậy, thì thầm
tới đây, ông Lực trở nên cáu kỉnh.
- Bà hãy dậy đi. Bà tưởng
tôi sung sướng lắm à! Tôi nói cho bà biết, thằng Hĩm
Tâu chẳng tử tế gì đâu. Bà nghe hắn xúi mà chửi tôi.
Bà nhớ chứ? Tôi tình cảm với bà mỗi đêm một lần,
do ăn cá mà sáu năm sinh liền bốn thằng con trai. Tay Hĩm
Tâu dọa tôi: "Nếu không hoạn cái của quý của
thằng Lực đi thì chỉ nhoàng một cái nó sẽ sinh ra cho
làng cả một bầy thanh niên". Hắn còn bảo: "Đàn
bà như đất đai. Đàn ông như giống má. Đàn ông gieo
giống gì thì trên đất đó sẽ mọc lên cây ấy. Tay
Lực khoẻ như trâu, hắn sẽ có cả một bầy con trai
cho mà xem.". Chính vì vậy mà tôi phải đi triệt
sản. Cho nên, lúc các con ra đi cả, tôi mới bất lực,
mới không sinh con cho bà được nữa. Tại cái triệt
sản, chứ tại gì tôi. Tại cái chiến tranh làm mất
con, chứ đâu phải là tôi vô phúc. Tôi đâu có ham cái
giấy lịêt sĩ, cái đồng tiền trợ cấp của nhà nước.
Tôi cũng như bà, tôi cần con. Tôi cần con mà.
Khi ông Lực gào lên "Tôi
cần con. Tôi cần con" thì đêm cũng bắt đầu rạn
nứt để về sáng. Thường lúc ấy tôi cũng dậy đi
vệ sinh nhẹ. Ông Lực vẫn thường hay gọi tôi.
- Thằng Tư đi đái đấy
hử?
Những ngày mới đến nhà ông,
tôi thường đáp lại ông: "vâng". Nhưng về sau
có lần tôi "vâng", có lần không. Tôi biết ông
hỏi tôi để ông chứng minh ông đang thức, chứng minh
nhà có chủ, chứ hai mắt ông vẫn nhắm nghiền, nước
mắt vẫn đẫm trên hai má. Ông Lực khóc nhiều lắm. Lông
mi của ông đã rụng theo nước mắt hết cả rồi. Mỗi
lần ông muốn mở mắt ra, tôi phải dùng nước, dùng khăn
cọ rửa, mắt ông mới mở ra được. Ông nói với tôi,
ông chẳng muốn mở mắt ra mà gì :
- Mở mắt có thấy gì đâu
anh? Tôi nhắm lại thì thấy rõ hết.
Tôi biết mắt ông vẫn còn sáng
nhưng để muốn
thấy lại tất cả nên ông suốt ngày ông nhắm mắt.
Ngay cả lúc đi lại cũng vậy, nên cái gậy không lúc nào
rời tay ông. Có lần tôi hỏi ông:
- Ông nhắm mắt cũng như
mở, tại sao ông lại phải dùng gậy xua xua để tìm
đường?
Ông xua tay, cười lên khùng
khục. Đôi gò má gìa khô khan, tàn đen, giật giật
từng cơn.
Thé mới đúng cảnh già, anh
ạ.
Có bận ông thủ thỉ hỏi tôi:
- Tay Hĩm Tâu còn sống chứ?
- Vẫn.
Hắn vẫn còn sống hả.
Rồi ông thì thầm kể lể.
- Anh Cả này. Tay Hĩm Tâu, lão
Cò ái cũng theo bố học nghề rồi đấy. ục, ục, ục.
Các con biết không? Hắn
cũng quấn giẻ quanh đùi và bắp chân, cũng mặc áo
bằng rơm, cũng giỏ, cũng dao như bố. Nhưng theo bố
mới bước qua khỏi lũy tre làng đã răng nọ cọ răng
kia, lập cập như chó đói vừa từ dưới ao lạnh lết
xác lên. Hắn run mới khiếp chứ. Giống như con cày
sấy ấy. Lão Cò ái cũng thế. Cao to có kém gì bố đâu,
các con! Có lẽ cao to thế nên hắn gan hơn Hĩm Tâu, theo
bố đến được ao đầm, nhưng khi lội xuống bùn, mới
bước được vài bước đã đứng như trời trồng,
miệng luôn suýt xoa, kêu đau đái mà mở khuy quần không
ra được. Rồi khi lập bập mở được khuy quần ra thì
chim Cò ái đã teo lại như quả ớt, đầu lổ chim bịt
cứng lại, cố lấy sức dặn, nước đái mới bật ra
được. ục, ục, ục. Cuối cùng rồi cũng như Hĩm Tâu
chửi thề -
"Lạnh đến cái con cu cũng muốn chết. Có bắt được
vàng ông cũng dí c. vào" – rồi vừa suýt xoa, vừa
lẩy bấy mà bò về. ục, ục, ục. Thành ra, cả làng
biết cách kiếm sống của bố con mình, nhưng cả làng
chẳng ai chịu nổi rét để theo được cái nghề như
bố. Từ đó mà người làng bảo bố là rái cá sinh ra.
Không phải đâu các con ạ. Ông giáo Vương, có chữ
nhất làng ấy, nói có lý lắm: "Đã là người thì
có ai mà không biết đói và rét. Ai mà không biết đói
và rét là hai kẻ thù của cuộc sống. Nhưng mỗi người,
do hoàn cảnh, do trời sinh ra có cảm nhận về đói và rét
khác nhau. Người béo tốt cảm nhận khác với người gày
guộc; ngừơi có trái tim nóng khác với người có trái
tim lạnh; người luôn sống vì người khác, khác với người
chỉ biết sống cho riêng mình; người hiền hậu khác
với người độc ác..." Bố cũng như bao người làng
ta thôi. Đói thì đầu gối phải bò thôi. Theo hợp tác
xã đi làm, cả năm được vài tạ thóc, các con lại ăn
khoẻ, đầu gối không bò mà chết đói cả nhà, à con?
Các con không biết, chứ bố là người sợ đói và rét
nhất. Vì sợ nó quá nên bố chẳng còn biết lạnh là gì
nữa. Có đêm bố cũng định "bỏ của chạy lấy người",
nhưng nhớ đến các em, ngày mai chưa có củ khoai vào
bụng, thế là bố quên lạnh đi đấy. Người ta ai cũng
da bọc xương như nhau mà. ục, ục, ục.
Hắn chưa chết là phải
lắm. Dễ gì mà chết được. Thằng đểu thường sống
lâu để trả cho hết nợ đời mà. Các con này. Khi các
con bỏ bố mà đi, hắn lại bảo: "Tay Lực tha hồ
sung sướng. Người ta có một tiêu chuẩn liệt sĩ, hắn
có những bốn". Mẹ con nghe thế tức nghẹn lên
cổ, hộc máu mồm ra chết tươi. Còn bố thì thấy trong
người xung lên một dòng điện mạnh . Cảm thấy cục
lạnh từ lục phủ tan ra. Người bố nóng hầm hập.
Bố lại lăn mình hết hồ này, ao kia, lại kiếm cá. Nhưng
kiếm về cho ai ăn bây giờ. Nhà mình bây giờ không khó
khăn như trước nữa. Hai anh trước chết, làng xây cho cái
nhà to. Hai anh sau chết, làng nuôi không cả bố lẫn
mẹ. Nhà bây giờ chẳng thiếu thứ gì: có cả tủ
lạnh, ti vi, có máy đo huyết áp luôn đeo trên tay bố; có
sổ tiết kiệm mấy chục triệu đồng... Lão Hĩm Tâu nói
cũng đúng đấy, nhưng mà đểu. Đểu lắm.
Mày cứ đẻ lấy một đứa
con trai, một đứa thôi, rồi cho nó ra trận, rồi không
thấy nó trở về để mà biết mùi sung sướng của
những người như tao. Á, cái mặt thằng đó còn bẩn hơn
cái mặt con rái cá, cái răng nó cũng sắc hơn cái răng
của rái cá. Nó nói chơi chơi mà cứ như kim châm vào
tim, óc người. Đau quá! Đau quá! Hĩm Tâu ơi, đến con
vật cũng đẫm tình mẫu tử nữa là người!
Có lần tôi đánh bạo nói với ông:
- Ông có khóc thì sự cũng đã
rồi.
- Sự đã rồi?
- Vâng. Người đã chết làm
sao sống lại.
Nghe tôi nói thế ông đưa hai
tay khẳng khiu lên đấm đấm vào đầu. Cái mũi gầy khô
của ông vặn vẹo. Mặt ông trông vênh váo, thảm hại.
Ông lặng lẽ quay mặt đi. Tôi biết mình đã lỡ lời.
Đêm nay, tôi lại mơ giấc mơ
này. Khi kết thúc giấc mơ tôi chợt nhìn thấy ông đang
quỳ bên cạnh giường tôi nằm, hai tay chắp vào nhau,
nhằm tôi mà vái. Rồi tôi lại thấy ông sờ vào người
tôi. Bàn tay ông lạnh như đồng, như tuyết. Tôi nghe ông
hỏi tôi:
- Đồng (có lúc ông gọi đúng
tên tôi chứ không kêu là thằng Tư nữa), con có muốn làm
con nuôi ông không?
- Không, không, không. (Chẳng
biết sao lúc ấy tôi lại trả lời ông thế)
- Không hả.
Tôi nhìn lên thấy mặt ông như tối hẳn lại và ông
từ từ ngã lăn xuống đất. Tôi phát hoảng, vội mở
mắt ra. Bổng tôi nghe tiếng ục, ục, chút chít từ
bếp vọng lên và lẩn trong mùi khen khét, thơm thơm từ
râu cháy còn có mùi khét nồng, chua chua của áo quần
lan toả. Tôi choàng dậy, lao xuống. Thấy ông Lực vẫn
ngồi lặng lẽ, quần áo ông đang bị lửa gặm nhấm,
khói đen từ áo cháy
trên lưng ông bay lên. Thấy
con rái cá già, lông ở lưng đã rụng từng mảng, đang
ục, ục, chút chít, rối rít bên ông. Mặc, ông như không
cảm thấy nóng, chỉ rung rung hai đầu gối cho nó cụm sâu
hơn vào giữa ngực. Tôi biết, ông đang lạnh lắm. Người
làng hãy đến mà xem, ông đang lạnh lắm. Lửa cháy trên
người giường như không chống nổi cái lạnh âm thầm,
bền bỉ tỏ ra từ tim ông. Tôi thấy mình nghẹt thở,
hối hận. Ngoài trời, gío xuân lạnh vẫn thổi từng cơn,
gào rú, đùa bỡn trên những mái nhà lợp giạ. Tiếng
những thân tre già xác xơ vẫn cọ vào nhau rin rít như
những tiếng khóc hờn, khóc giận của ma...Chợt, tôi rùng
mình. Cái lạnh từ đâu đó xộc thẳng vào tim tôi. Tôi
như nhận ra nơi cội nguồn của lạnh giá./.
Phạm
Thành
|