Hoa lục bình

Hồi ông tôi còn sống, ông hay nói về người con gái lớn của mình. Cô là chị của ba tôi nhưng từ khi lớn lên tôi chỉ biết cô qua tấm ảnh trong cái khung treo trên tường. Đó là một người con gái trạc tuổi tôi bây giờ, cô gối đầu trên cánh tay duỗi dài, nụ cười khoe hàm răng trắng thật đều, mái tóc đen dài ôm kín đôi vai. Bức ảnh đen trắng đã ngả màu vàng, chắc đã được treo ở đó lâu lắm rồi. Lúc còn nhỏ tôi hay theo ông nội sang hàng xóm, thường là để nhìn ông đánh cờ với ông Bảy. Thỉnh thoảng hai người ngừng tay uống trà, nói với nhau đủ thứ chuyện. Hình như lúc nào cũng nghe ông nhắc đến cô Hai.

Cô Hai là người con gái giỏi giang, có ước mơ về một sự nghiệp to lớn. Cô nói với ông nội tôi là cô sẽ trở thành một bác sỹ giỏi, cô sẽ xây lại ngôi nhà đẹp hơn cho ông an dưỡng khi về già. Đậu tú tài xong cô xin ông nội vào Sài Gòn học Đại học. Không biết cô có thi đỗ và trường Đại học Y khoa hay không mà từ đó không thấy cô trở về. Ông nội cũng chẳngđi tìm, mấy năm sau giải phóng thì ông nghe nói có người gặp cô Hai ở nước ngoài. Thế là ông bắt đầu chờ đợi cô với đủ thứ về một ngày cô Hai trở lại với sự giàu có, sang trọng.

Nhưng mãi đến khi ông mất được mấy năm mới thấy cô Hai về. Nếu ông nội tôi còn sống chắc là ông sẽ thất vọng và tôi hình dung mãi vẫn không được phản ứng của ông khi gặp lại cô Hai. Lúc ấy tôi đang ngồi ở ngoài hiên phụ bà ni gói đường, tiêu, bột ngọt... thành những gói nhỏ để ngày mai má tôi đem ra chợ bán. Trời đã chập choạng tối, bữa cơm ở các nhà bên cạnh đã dọn từ lâu. Ở nhà tôi bữa cơm tối lúc nào cũng muộn, trong khi chờ ba má tôi ở ngoài chợ về thì tôi thường giúp bà nội chuẩn bị những món hàng lặt vặt. Cô cứ đứng nhìn chúng tôi như thể đó là công việc gì lạ lắm. Bà tôi hình như không nhận ra cô, mãi đến khi cô lên tiếng hỏi bà mới ngỡ ngàng kêu: "Mày về đó hả Hai?" Cuộc hội ngộ không có gì mặn mà, hình như thời gian xa cách quá lâu đã làm cho tình nghĩa cũng phai nhạt đi nhiều. Trong bữa cơm, mọi người nói chuyện với nhau như khách, thoạt nhìn thì không biết đó là mẹ, con, chị em với nhau. Cuối bữa, cô Hai hỏi ba tôi: "Đất nhà mình đâu hết rồi?" .

Mảnh đất của ông tôi rất rộng, ngày xưa ông cất một dãy nhà để cho thuê mà vẫn còn để trồng cây, làm vườn. Đó là tôi chỉ nghe kể lại chứ từ khi hiểu biết tôi chỉ thấy một khoảng sân khá rộng, có một cây dừa èo uột mãi không thấy trái. Khoảng sân cuối cùng đó được bán đi khi ông tôi trở bệnh nặng. Lúc ông mất, đám tang của ông được tổ chức ở nhà Vĩnh biệt vì căn nhà cũ đang bị phá đi để chia đôi đất cho người mua xây nhà kịp ngày tốt .

Khi ba tôi kể chuyện, cô Hai không nói gì chỉ thở ra thật dài. Tối đó, trước khi đi ngủ tôi mới thấy cô đến trước bàn thờ thắp cho ông mấy nén huơng. Chắc là ông không biết gì còn tôi cảm thấy buồn buồn vì cô Hai không đúng như ông vẫn kì vọng và chờ đợi. Cuộc sống của gia đình tôi cũng không thay đổi nhiều từ khi có mặt của cô Hai. Má tôi vốn đã ít nói nên tôi cũng không thấy bà đon đả hay phàn nàn cô Hai một tiếng nào. Những bữa cơm chỉ thêm chén, thêm đũa, ai ai cũng cắm cúi, thỉnh thoảng có tiếng của ba nhắc nhở chị em tôi chuyện gì đó, rồi thôi. Một bữa, bà đột ngột nói: "Con Hai kiếm gì làm thêm đi, ăn ở không vầy, thằng Ba không nuôi nổi đâu”. Tôi thấy ba chỉ khẽ chau đôi mày còn má với cô Hai làm như không nghe thấy gì.

Hôm sau, cô Hai lặng thinh bỏ đi mấy ngày, khi trở về cô mang theo một bao lớn toàn là vải khúc đủ màu, đủ loại. Tùy theo khổ vải cô cắt may thành quần áo trẻ con. Kể ra cô cũng khéo tay nên ráp nối thành những kiểu áo quần thật đẹp. Tôi đang dịp nghỉ hè nên tự nguyện phụ cô một tay, đơm khuy kết nút hoặc đính những cái nơ bé xíu lên những cái áo đầm ngộ nghĩnh. Tôi say mê với những công việc tỉ mỉ ấy giống như hồi còn nhỏ tôi may quần áo cho búp bê. Có hôm hai cô cháu làm việc đến khuya, sự ngăn cách được xóa dần đi và cô kể cho tôi nghe khoảng đời lưu lạc của mình.

Thực ra cô chưa hề bước chân vào trường Đại học Y Khoa. Hồi ấy vào Sài Gòn, tự lượng sức mình cô thi vào trường nữ hộ sinh nhưng cũng hỏng, cô ghi danh học luật, học được mấy tháng thì đất nước được giải phóng, cô nghe lời bạn bè xuống tàu ra khơi. Lênh đênh mấy ngày, đói khát tưởng đã chết thì được kéo vào bờ. Trên tàu ai cũng tưởng đã ra tới nước ngoài đến khi biết đó chỉ là đất nước của mình thì cũng không còn đủ sức để buồn hay vui. Được cứu sống, cô theo mấy người bạn ở lại luôn nơi đó, cũng định bụng khi nào kha khá thì trở về quê, nào ngờ...

Cuộc sống có thể dễ dãi với một số người nhưng cũng khắc nghiệt với nhiều người khác. Cô nhận mình là người không được cuộc đời ưu đãi. Ở nơi chỗ xa lạ không hề có một người thân, lại chẳng có nghề nghiệp rõ ràng. Cô Hai tôi làm bất cứ việc gì để đổi gạo sống qua ngày. Có lúc cô tưởng được làm cô giáo khi dạy bọn trẻ đánh vần năm ba chữ, nhưng dân ở biển lúc này nghèo quá không làm thế nào để có tiền trả lương cho cô giáo. Năm 30 tuổi cô gá nghĩa với một người đàn ông có nơi nương tựa. Khi ông ta đưa cô về nhà thì cô ứa nước mắt vì tủi thân, nhà chồng cô là một chiếc ghe đã cũ neo ở bến sông. Tuy vậy, cô bắt đầu đời sông nước cũng dễ dàng bởi vì trước đó cô chẳng có gì sung sướng hơn. Chỉ có những buổi chiều cắm sào ở bến sông nào đó, ngồi tựa mữi ghe nhìn về phía hạ nguồn, nơi đó có con sông gặp biển, cô hình dung đó là đường về nhà. Lâu lắm cô không nghĩ về gia đình, cô không có lúc nào rỗi rảnh để bắt gặp trong lòng mình nỗi nhớ nhà hay nhớ cha mẹ, anh em. Cô không hiểu đời sống cơ cực đã làm cho lòng mình chai sạn hay vì từ khi sinh ra cô đã không có được trong lòng thứ tình cảm đó?.

Đời cô tôi như chiếc ghe mà cô đang dùng làm nhà cứ đi khắp các con sông, lênh đênh bên cô là những đám lục bình. Có lúc nào chợt chùng lòng, khi bắt gặp những đoá hoa màu tím nhạt bình thản trôi theo con nước, im lìm, cam chịu cô lại chợt liên hệ với bản thân. Nhiều năm dài như thế trôi qua, trên chiếc ghe kia vẫn chỉ có hai người bên nhau, như hai chiếc bóng. Có lần cô cũng nghĩ đến một đứa con, thèm một tiếng khóc trẻ con nhưng cô cứ như "hoa nở trên non một mình". Công bằng mà nói chồng cô là một người đàn ông hiền lành, ở với nhau qua bao nhiêu năm mà ông chưa hề to tiếng mắng mỏ cô. Chồng cô nhiều lần an ủi khi cô buồn vì không sinh nở được. Ông cứ dỗ dành: "Từ từ rồi chúng ta sẽ có một đứa con".

Ước mơ đó không bao giờ trở thành hiện thực khi chồng cô đột ngột qua đời. Cô lại lầm lũi một mình chèo ghe qua lại mấy con sông, cũng tưởng đời mình đến thế là thôi. Nhưng những buổi chiều cắm ghe, lui cui cơm nước một mình cô chợt cảm thấy lòng xốn xang khi nhớ tới bóng dáng chồng chiều chiều ngồi nhắm rượu, ca mấy câu vọng cổ bâng quơ. Những đêm trăng sáng, nhìn bóng mình quạnh quẽ, nhớ chồng rồi lại thương thân mình. Chịu không nổi cô bán ghe, xây lại mộ cho chồng tươm tất, còn ít tiền cô tìm về quê cũ.

Sau khi may được một ít áo quần trẻ con, ngày ngày cô Hai mang ra chợ bán. vải vụn là của một người bạn cũ ứng làm vốn, cô lấy công làm lời nên hàng giá rẻ. Vì vậy chỉ mấy ngày sau là bán hết. Cô Hai lại đạp xe đi rồi mang vải mới về. Lại cắt, lại may rồi tự đem đi bán. Về sau, có nhiều người đặt hàng, cô tôi không phải đi bán, chỉ ngồi nhà cắt may. Đến lúc không kịp hàng, cô lại đi tìm người cho họ may gia công. Tôi khâm phục cô vô cùng, xa quê đã lâu rồi mà không biết sao cô lại thiết lập được chuyện làm ăn buôn bán nhanh như thế!.

Cuộc sống của cô ổn định dần. Bà tôi không còn khó chịu, mẹ tôi tỏ ra cởi mở hơn. Một hôm bà tôi kêu tôi đến nói nhỏ: "Hình như cô Hai mày ăn diện ra phải không?”. Tôi nói với “đâu có” nhưng thật ra tôi cũng đã nhận ra dạo này cô Hai lạ hơn. Cô Hai tôi có da có thịt hơn lúc mới về. Đôi gò má căng trắng hồng, mái tóc được cắt uốn cẩn thận hơn chứ không còn búi lỏng lẻo như dạo trước. Cô may áo mới cho bà , mua áo mới cho bé Tí em tôi và cũng may thêm nhiều áo quần mới cho mình. Có lần cô gọi tôi vào phòng đưa cho tôi một thỏi son màu hồng cánh sen và dạy tôi: "Con gái lớn rồi phải biết làm đẹp, đi đâu chơi con nên thoa một tí son". Thỏi son ấy được cất kỷ trong ngăn tủ vì má tôi không thích, má tôi thường nói với tôi rằng: "Trẻ con không nên dùng mỹ phẩm, phấn son chỉ làm cho con già thêm thôi".

Dạo này cô Hai thường chở bé Tí đi dạo biển con bé thích lắm vì ở nhà chẳng ai có thời gian để chở nó đi chơi. Ba tôi hàng ngày đi làm xa, tối về lại phải ra chợ phụ má dọn hàng Còn tôi năm nay là năm thi tốt nghiệp, tôi đi học bù đầu mà chưa đủ. Chiều nào cũng vậy, cô nấu buổi cơm chiều thật sớm rồi lấy xe đạp chở bé Tí đi. Hôm nào tôi cũng thấy bé Tí cầm về nửa bịch bắp rang bơ, có khi là cái bong bóng bay. Chiều nay tôi thấy bé Tí mang về một cái diều bằng nhựa hình con bướm màu sắc sặc sỡ. Con diều này mà thả lên trời thì đẹp biết mấy. Chẳng thế mà mặt bé Tí cứ tươi hơn hớn . Tôi hỏi nó: "Cô Hai mua cho em hả? Sang quá ta". Bé Tí chỉ cười mím mím không trả lời. Buổi tối tôi thường đi ngủ trễ nhưng tối nay tôi lười quá, chui vào mùng sớm hơn thường ngày. Ngày mai chủ nhật, nghỉ học một tối không sao! Bé Tí vẫn chưa ngủ, tôi vừa nằm xuống nó đã quay sang ôm cổ tôi kề sát vào tai tôi, hơi thở nó làm tôi nhồn nhột: "Chị ơi, cô Hai có bồ". Tôi xô nó ra trợn mắt nhìn nó: "Con nít, nói bậy". Bé Tí thì thào như sợ ai nghe thấy: "Em nói thật mà, lâu rồi".

Người đàn ông đó cô Hai gặp ở nhà bạn của cô. Ông ta làm gì tôi không biết. Theo lời bé Tí kể thì mỗi chiều sau khi cô Hai chở nó đi một vòng mua cho bịch bắp rang bơ hay thứ gì đó rồi cô ghé công viên, ở đó ông ta đã chờ sẵn ở một cái ghế đá. Bé Tí chạy chơi thoải mái trong khi cô Hai và ông ta tâm tình đến khi chạng vạng tối gọi bé Tí về.

Cả nhà tôi không ai biết chuyện gì cho đến một hôm, trong lúc tôi đang ngồi xếp giùm quần áo để ngày mai cô hai giao cho bạn hàng bà với bé Tí đang xem ti vi còn ba má tôi đang tính sổ hàng hóa. Đột nhiên trước nhà có tiếng lao xao rồi mấy người đàn bà kéo nhau ùa qua cái hiên nhỏ, đột ngột hiện ra trong phòng khách. Chưa ai kịp hỏi gì thì một người đàn bà to lớn xấn tới trước mặt cô Hai, vung tay nhịp nhịp: "Nè, nói cho mà biết, có muốn chồng thì tìm thằng đàn ông nào không có vợ con. Đừng cướp chồng, phá gia cảnh người khác thì không xong đâu!”. Cô hai tôi đứng dậy, lùi ra sau thì bà ta tiếp: "Đây chỉ báo trước, không làm gì đâu, nhưng không chừa thì lần gặp nhau sau sẽ khác đấy!"

Bọn họ kéo nhau đi cũng nhanh như lúc đến, bọn trẻ tò mò bu kín cửa đã tản đi mà cả nhà tôi như còn sững sờ chưa ai nói được tiếng nào. Cô hai đứng cúi đầu, xoắn chặt chiếc áo trong tay mà chắc cô không biết. Một lúc lâu ba tôi lên tiếng: "Già rồi, chuyện gì cũng phải có suy nghĩ chứ chị Hai!". Má tôi thu dọn sổ sách xuống nhà dưới. Bà thở dài, lặng lẽ têm trầu bỏ vào miệng. Tôi và bé Tí len lén về phòng.

Sau đó cô Hai không còn chở bé Tí đi dạo biển vào buổi chiều. Cô vẫn lấy vải về may quần áo rồi đi giao. Thỉnh thoảng tôi vẫn làm giúp cô một vài công việc lặt vặt. Hai cô cháu cứ lặng lẽ, cô không nói chuyện gì mà tôi không dám hỏi. Cô Hai lại ít cười nói như hồi mới về, cả nhà tôi cũng chẳng ai hỏi han gì cô. Tôi đâm ra thương cô hơn và thấy rằng thà là hay ba má tôi la hét hay làm điều đó để tỏ ra quan tâm tới cô Hai còn hơn là lạnh nhạt như thế! Người ta sống với nhau đôi khi chỉ cần được chia sẻ dù chỉ là bằng một lời nói thông cảm. Ở nhà tôi hình như thiếu điều đó, từ khi cô Hai tôi trở về, ba má tôi chẳng tỏ thái độ gì, thương cũng không mà ghét cũng không.

Một hôm đến giờ cơm tối vẫn chưa thấy cô Hai về. Cả nhà ăn cơm xong, tôi dọn dẹp rồi để phần cơm cho cô, lấy lồng bàn đậy cẩn thận. và ba má tôi cũng chẳng ai thắc mắc vì sao cô hai về trễ. Tôi đợi cửa cô đến nửa đêm vẫn không thấy cô về, linh tính cho tôi biết là cô Hai lại bỏ đi. Nghe tôi nói ba chỉ hỏi: "Thật không?". Còn má thì lắc đầu nói một câu hình như là lời phát biểu đầu tiên: "Già rồi sao không chịu sống yên phận!".

Mấy ngày rồi mà không thấy cô Hai trở về. Đêm nào tôi cũng nằm thấp thỏm đợi tiếng cô gọi cửa. Có lẽ tôi là người duy nhất trong nhà mong cô trở về. Tôi không biết đó có phải là tình thương yêu hay không mà thấy lòng cứ xót xa khi hình dung ra cánh hoa lục bình bơ vơ, bỏ sông tìm về biển nhưng sóng nước lênh đênh chẳng biết tìm đâu là bến bờ để nương thân.

Dẫu sao, cô Hai ơi, vẫn mong cô trở lại nhà . . . ./.

Lưu Cẩm Vân

 

     

 

Trang ch  |  English  |  Kỳ trước | Âm thanh


Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ-Hà Nội ĐT: (84 4) 9344231

Fax: (84 4) 9344230 Email:[email protected] 

Tổng Biên tập: Đinh Thế Lộc