...
Rét! Rét quá! Ba đứa một giường ôm
nhau, mình nằm giữa, hai chăn trùm kín đầu và chân, mà
mãi không sao ngủ được. Có lẽ do trong hang ẩm và nước
nhỉ bám đầy tường đá mới rét thế. Đêm nay ra bến
phà gió mạnh, không hiểu sẽ thế nào?
Không ngủ được, nằm suy nghĩ vẩn vơ
mãi cũng chán, đành dậy viết nhật ký. Xưa nay mình ít
viết nhật ký, lại viết dở nên rất ngại, cả viết
thư cũng thế. Nhưng lúc này... Biết làm gì cho hết thời
gian lúc này?
Điều đầu tiên mình muốn viết là - nhớ
nhà. Nhớ và thương mẹ quá! Mẹ bây giờ đang làm gì
nhỉ? Chắc buồn và giận mình lắm. Hãy tha lỗi cho con
mẹ nhé, vì con bỏ mẹ ở nhà một mình, già yếu không
ai giúp đỡ. Hôm được tin con ghi tên đi thanh niên xung
phong, mẹ không nói gì, còn cố gượng cười để con yên
tâm, nhưng con biết trong lòng mẹ rất buồn và có thể
còn trách con không hỏi ý kiến mẹ trước. Mẹ ơi, con
hiểu lòng mẹ. Bản thân con, con cũng chẳng dễ gì khi
phải xa mẹ, xa ngôi nhà tranh bé nhỏ, thân yêu của ta.
Nhưng việc con ra đi là cần. Rất cần. Con tin mẹ hiểu
điều đó...
Có nên cho mẹ biết sự thật về điều
kiện sống và làm việc ở đây không nhỉ? Không! Chỉ
làm mẹ thêm lo nghĩ. Vả lại, chắc gì mình ở lâu một
chỗ? Mới tuần trước còn làm đường ở Trường Sơn,
bây giờ đã ở đây, cao điểm phà sông L, cách biển chưa
đầy hai chục cây số. Không hiểu nay mai còn đi những
đâu nữa.
Nhớ cái Hòa và bọn bạn cùng đơn vị.
Không được đi với mình lần này, chắc nó buồn lắm.
Hai đứa cùng làng, cùng đi một ngày, cùng ở với nhau
chừng ấy thời gian, thế mà... Biết làm thế nào được.
Cả đội xung phong, người ta chỉ lấy năm. Năm người
để dẫn đường cho ô-tô qua sông ở bến phà này, thay
cho cả tổ, cũng nữ và đều là thanh niên xung phong, vừa
hy sinh ba ngày trước đó. Những người được chọn là
Vân, Yến, Lộc, mình và Út. Mỗi đứa một tính, một
kiểu người, nhưng cùng còn trẻ và chưa chồng, chưa cả
người yêu, trừ cái Yến, già nhất, hai mươi hai tuổi,
nghe nói đã có "chàng" nào đấy. Cũng nghe nói
thôi, chứ chưa bao giờ thấy cô nàng nhận thư hoặc nói
chuyện về anh ấy. Nó kín lắm. Lại nghiêm khắc nữa.
Tổ trưởng mà! Từ nãy đến giờ đã hai lần nhắc
mình ngủ, đêm còn đi làm. Cả cái Út nữa (nó cũng là
em Út của tổ), nó đã mấy lần cấu mình, bắt nằm xuống
để ôm nó cho ấm. Cứ như con nít...
21 tháng 11
Ngày cũng như đêm, không lúc nào ngớt
tiếng máy bay. Thỉnh thoảng lại còn pháo từ biển câu
lên.
Tổ mình làm ở phía Bắc bến phà. Cả
năm đứa đứng rải trên một đoạn đường dài, từ mặt
nước tính lùi lại, mỗi đứa cách nhau hai trăm mét. Tổ
trưởng Yến phân công Út đứng trên cùng, vì nó nhỏ
nhất, lại mới ra chiến trường. Tiếp đến là Vân, rồi
Lộc. Chặng cuối cùng phải hai người, là mình và Yến.
Đây là một trong những trọng điểm ác
liệt nhất của mạch máu giao thông Bắc Nam. Cách sông
còn những mấy cây số mà mặt đường đã bị bom và rốc-két
địch cày tung, ô-tô không thể tự đi một mình, nếu
không có người xi-nhan. Nhiệm vụ bọn mình là đi trước,
dẫn xe men theo các miệng hố bom mới được lấp sơ sài,
tránh những chỗ có cắm dấu bom nổ chậm, cho tới tận
mép nước. Ở đấy sẽ có người xếp xe lên phà. Vì
đêm không được đốt đèn, bọn mình đứa nào cũng phải
mặc áo trắng để từ ca-bin, lái xe thấy mà đi theo. Những
lúc có máy bay - ấy là nói khi chúng thả pháo sáng hoặc
lao xuống bắn phá, chứ bay ngang hay vần lượn thì kệ
- ai ở trên, có thể chạy lánh xa khu vực bến phà, còn
người phía dưới thì ở nguyên tại chỗ, trú trong các
hầm cá nhân được đào sẵn bên cạnh. Có lúc chúng bắn
mặc chúng, phà cứ chạy, ô-tô cứ đi, tất nhiên con người
cứ tiếp tục làm việc. Càng sáng! Càng không phải dò
dẫm như trước!
Ban ngày, bến phà thật yên tĩnh, nhưng
chỉ là cái yên tĩnh tương đối của chiến tranh. Không
tiếng phà, không tiếng ô-tô, không có gì ngoài một dải
đất nham nhở, màu sắc lẫn lộn, lổng chổng những
xác xe bị lật hoặc bị bắn cháy chưa kịp thu dọn. Bên
cạnh, giấu hết mọi sự khốc liệt của chiến tranh
vào lòng, con sông vẫn không ngừng chảy, bình thản và
hiền từ như nghìn năm nay. Thật khó tin rằng chỉ chốc
nữa, khi mặt trời vừa lặn, là hàng đoàn ô-tô, hàng
đoàn người sẽ từ đâu đó chui ra. Cả bến phà sẽ bừng
tỉnh dậy, bắt đầu một "ngày" mới, một cuộc
chiến đấu mới...
25 tháng 11
Hôm nay, cả hai phà cùng bị trúng bom một
lúc. Gần mười chiếc xe được dẫn xuống tận sông phải
đứng trơ trọi dưới ánh sáng chói rực của đèn dù,
dưới làn bom và rốc-két máy bay địch.
Phòng không ta bắn rất dữ.
Tổn thất...
Mình có sợ chết không? Biết nói thế
nào được nhỉ? Có. Sợ, nhất là những lúc thế này,
khi suốt ngày nằm dài trong hang yên tĩnh và có quá nhiều
thời gian để suy nghĩ. Ừ, có lẽ nói sợ cũng chưa thật
đúng. Mình chỉ tiếc. Bây giờ mà phải chết thì tiếc
lắm. Lại thương nữa. Thương mẹ ở nhà. Thương bọn
bạn phải buồn, phải gánh thêm một phần việc.
Không hiểu sau khi chết thế nào nhỉ?
Không lẽ mình sẽ chẳng còn biết gì nữa? Chẳng biết
cả việc một ngày nào đó chiến tranh kết thúc, mọi
người sẽ tìm gặp lại nhau, sẽ đi học, làm việc,
hay chỉ đơn giản sẽ được sống hòa bình? Ôi, hòa
bình!... Chết chắc phải đau lắm. Hẳn thế. Không đau
sao được, khi cơ thể bị xé ra từng mảnh? Người khác
nghĩ thế nào về cái chết? Cái Lộc và cái Vân, cái
Út hay cái Yến chẳng hạn? Chúng có sợ như mình không?
Chắc có. Nhưng chúng không bao giờ để lộ điều ấy
ra ngoài. Chúng vẫn lặng lẽ làm việc, các tốp thanh
niên xung phong chữa đường cũng thế. Anh em lái xe, lái
phà cũng thế. Mình cũng thế.
27 tháng 11.
Đọc mấy trang vừa rồi, thấy buồn cười.
Toàn chuyện vẩn vơ không đâu. Lúc nãy, tò mò, mình hỏi
Út:
- Này Út, em có sợ chết không?
Út tư lự một lúc, rồi thay cho câu trả
lời, nó hỏi lại:
- Em hỏi chị, chị phải nói thật nhé,
chị Liên. Đã bao giờ có người con trai nào hôn chị chưa?
- Chưa... Sao em hỏi thế?
- Em cũng chưa. Con gái chết mà chưa được
hôn kể cũng thế nào ấy, chị nhỉ? - nó nói, giọng mơ
màng và hơi buồn, rồi lại rúc vào chăn, ôm mình đến
nghẹt thở. Con bé rõ đến lạ.
1 tháng 12
Cả bọn được một phen hú vía. Chiều
qua, một thằng "Con Ma" bất chợt phóng liền mấy
quả tên lửa vào đúng cửa hang. May không ai việc gì.
Lý do thật đơn giản: trước đó mấy đứa tắm xong,
bao nhiêu đồ lót, đồ vệ sinh phơi tuốt cả một dây
ngoài nắng. Tuy biết làm thế có thể nguy hiểm, nhưng kệ!
Cứ trêu thằng Mĩ, xem hắn tồi đến mức nào. Và thằng
Mĩ đã cho biết hắn tồi đến mức nào. "Cứ thấy
xu-chiêng đàn bà là mò đến!", một đứa châm chọc.
Sau đó họp tổ, cái Yến cấm từ nay
không được ai phơi bất cứ cái gì trắng ngoài cửa
hang, thậm chí cả khăn mù- xoa. Nhưng ác thay, trong hang
luôn ẩm ướt, không có gió, phơi bao nhiêu vẫn không
khô. Mặc vào người thật khó chịu.
5 tháng 12
Nhớ nhà quá!
Thèm bữa canh rau mồng tơi. Hay rau ngót,
rau bầu cũng được. Ở đây không chợ, không vườn, cái
cần và khó kiếm hơn cả là rau xanh, vì miền Trung đất
cát, quanh năm nắng nóng. Khắp nơi đất bị cày tung,
có hôm đi suốt buổi chỉ nhặt được nhúm rau má già
hoặc rau sam chua loét. Da cứ sùi lên như bị bệnh hủi...
6 tháng 12.
Cái Lộc có thư. Nét chữ trên phong bì nắn
nót, lại không ghi tên người gửi. Cả bọn đoán chắc
thư người yêu nên hồi lâu bắt nó phải khai thật hết
mọi chuyện mới cho nhận. Cái Lộc nói ngay là chẳng
có gì để khai, bảo cứ bóc tại chỗ, đọc to mọi
người cùng nghe. Thì ra đó là thư một người bà con xa
ở Hà Nội, nội dung khô khan và chỉ với những lời thăm
hỏi bình thường. Không hiểu sao nghe xong, đứa nào cũng
có vẻ như bị hẫng và hơi buồn, vì cứ tưởng và muốn
đó là một bức thư loại khác, thư tình với những lời
âu yếm dè dặt và kín đáo, dù những lời ấy không
dành cho mình.
Một lát sau, nằm trong chăn, lại cái Út
cấu vào tay:
- Chị Liên này, chị có người yêu chưa?
- Chị cũng không biết. Có lẽ chưa.
- Sao lại có lẽ? Có hay không thì chị
phải biết chứ?
- Chuyện không đơn giản như thế... Mà
thôi, Út ngủ đi.
Nhưng cái Út không chịu thôi. Tính nó thế,
muốn biết cái gì là phải gạn hỏi bằng được.
- Anh ấy là ai? Ở đâu?
Mình buộc phải trả lời nó:
- Xa lắm. Anh ấy đang học ở nước ngoài.
Nhưng từ ngày xa nhau, chị chưa bao giờ nhận được
thư anh ấy. Còn chị thì không biết địa chỉ, mà có
biết, cũng không gửi. Chị và anh ấy cùng làng.
- Thế anh ấy có yêu chị không?
- Chị không biết. Chắc anh ấy quên chị
rồi.
- Còn chị.
- Đừng hỏi nữa. Út ngủ đi! Mà rồi
giữa anh ấy và chị chưa có gì đặc biệt. Chỉ thế
thôi.
Cái Út nằm im một lúc rồi bỗng nói,
giọng hờn dỗi:
- Em là em chúa ghét những anh đi nước
ngoài. Cứ tưởng như mình ghê lắm, mặt vênh lên, nhìn
người khác bằng nửa con mắt...
- Ấy, em đừng nói thế. Không phải ai cũng
như em nghĩ đâu.
Cái Út không nói gì thêm, nhưng chắc còn
lâu nó mới ngủ được. Nó trong trắng, vô tư quá. Hôm
nọ nó nói gì nhỉ? Ừ, "Con gái chết mà chưa được
hôn kể cũng thế nào ấy...?" Ngộ thật.
2
- Cái này mãi gần hai năm sau khi nó hy
sinh tôi mới nhận được. - Bà Nghĩa vừa nói, vừa hất
đầu chỉ cuốn nhật ký tôi đang đọc dở. - Cùng ít
quần áo và tư trang của nó. Tôi nhờ thằng lớn nhà Cả
Chung bên cạnh đọc cho nghe. Tội nghiệp con bé. Tôi chỉ
có mình nó. Nhiều khi nghĩ mà đứt ruột. Cậu xem, tôi
già yếu thế này, vậy mà trời bắt phải sống lâu hơn
con, sống để nghe những lời kia của nó...
Rồi bà thở dài, cúi xuống sàng nốt mẻ
gạo mới giã.
Nhà bà Nghĩa và nhà tôi cùng chung một
xóm, chỉ cách nhau mấy ngõ. Chồng chết sớm, bà chưa
quá năm mươi mà trông như cụ già.
Năm nay tôi dành trọn cả mười ngày
phép về thăm quê. Theo lời khuyên của mẹ tôi, tôi đi
một vòng gọi là "thăm xã giao" các nhà trong
xóm, một việc những lần trước, phần vì bận, phần
vì ngài ngại, tôi vẫn chưa làm được. Tôi đến nhà
bà Nghĩa, và bà đã cho xem cuốn nhật ký của Liên, con
gái bà, để lại.
Bà Nghĩa có đoán ra tôi là "anh ấy"
mà Liên đã nhắc trong nhật ký không? Có thể lắm. Vì
vậy bà cho tôi xem để trách khéo việc tôi để con gái
bà đau khổ chăng? Cũng có thể bà không biết gì. Xưa
nay bà là người tốt bụng, chất phác, không quen suy
xét sâu sắc kiểu ấy. Vả lại, trong xóm, tôi không là
người duy nhất đi học nước ngoài những năm chiến
tranh.
Còn tôi, tôi và Liên thì thế nào?
Không ngờ Liên tình cảm và sâu sắc đến
thế. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy lúc đó quả tôi là
một cậu bé ngờ nghệch, vô tư đến tàn nhẫn. Chúng
tôi là bạn thân, học cùng trường, tôi hơn một lớp.
Trường xa, cùng đi, cùng về mà nào có bao giờ nói chuyện
với nhau, hoặc giả có nói, cũng chỉ toàn chuyện bông
đùa, trêu chọc, như phần lớn những đứa khác vào tuổi
ấy. Tất nhiên, tôi không thể không nhận thấy Liên là
một cô bé (trong ký ức tôi, bao giờ Liên cũng là cô
bé) tốt, lại xinh. Nhưng lúc ấy, về tâm, sinh lý, tôi
chưa phát triển đến tình cảm yêu đương, và tất
nhiên không biết có thể Liên đã chú ý, hay thậm chí
còn thầm yêu tôi.
Đêm trước hôm tôi đi, cùng một số bạn
gái khác, Liên đến chia tay, uống nước chè xanh, ăn kẹo
lạc và hát những bài ca cách mạng. Suốt buổi Liên im
lặng. Rồi tình cờ hai đứa ngồi cạnh nhau. Lại im lặng.
Có thể lúc ấy tôi lờ mờ đoán được tình cảm Liên
với tôi, nhưng Liên không dám nói. Còn tôi, không hiểu
tôi có nói điều gì không, để Liên hiểu theo cách
mình và hy vọng, dù không đâu, mong manh, nhưng vẫn cứ
là hy vọng?
Tôi xa nhà bảy năm. Có thể nói suốt thời
gian ấy tôi quên hẳn Liên, không hỏi thăm hoặc viết
cho Liên một bức thư nào. Khi Liên hy sinh, tôi được bố
mẹ báo cho biết. Tôi buồn và thương Liên, hẳn thế,
nhưng vẫn là cái buồn thương chung chung như khi nghe tin
ai đấy trong xóm từ chiến trường không trở lại. Có
lẽ tôi sẽ còn tiếp tục nghĩ như thế về Liên, nếu
như hôm nay vô tình không được đọc cuốn nhật ký
này.
Bà Nghĩa đã bỏ ra sân thái rau cho lợn.
Tôi ngồi lại một mình bên chiếc bàn học của Liên
ngày nào, xúc động lật tiếp những trang chữ li ti, đã
ngả màu cùng năm tháng...
3
10 tháng 12.
Mỗi đứa được phát hai mét vải trắng.
Pôpơlin pha ni-lông hẳn hỏi. Để may áo thay những chiếc
đã ố màu, lái xe kêu họ cứ lẫn vào màu trắng của
đất.
Cả hang sôi nổi hẳn lên. Đi làm về, vừa
chợp mắt một chốc đã vùng dậy, đứa nào cũng hý
hoáy may may cắt cắt.
Bỗng cái Vân ngừng tay, ngồi thừ một
lúc, rồi nói:
- Kể cũng buồn cười thật đấy, chúng
màỵ ạ. Bọn mình thì tỉ mẩn may móc từng mũi nhỏ,
nhỡ một tý đã xuýt xoa, như thể may áo cưới không bằng,
lại còn kiểu này, kiểu nọ nữa. Nhưng thử hỏi để
làm gì? Ban ngày không dám mặc, mà cũng chẳng biết mặc
cho ai, còn đêm, đêm thì thế nào chẳng được! Tớ ấy
à, tớ thì muốn cứ để cả tấm mà khoác. Càng rõ!
Càng khoẻ! Còn hơn phải vất vả thế này để làm
duyên... làm duyên với những chiếc ô-tô mù!
Mắt cái Vân ươn ướt như muốn khóc.
Nó nói là nói thế thôi, chứ cả tổ, nó vẫn là đứa
ưa diện nhất, kỹ tính nhất trong chuyện ăn mặc, chắc
chắn lần này áo của nó cũng được may cẩn thận và
đẹp nhất.
- Cánh lái xe là chúa tếu đấy nhé. - Một
chốc sau Lộc lên tiếng, có lẽ để xua đi sự im lặng
bất tiện. - Một hôm có chàng bảo mình thế này, chúng
mày nghe có được không? "Này, đồng chí áo trắng
ơi, đồng chí có xinh không đấy?". "Không đến
mức khó coi như anh tưởng", mình đáp. "Vì sao
anh hỏi thế?". "Là vì cái xe của tôi ấy mà,
không hiểu sao từ khi gặp cô, nó không chịu nghe theo
tay lái của tôi nữa. Cô đi, nó đi, cô đứng, nó đứng.
Tự nó quyết định. Còn tôi, tôi chỉ ngồi khoanh tay
mà nghĩ rằng chắc cô phải xinh lắm nên mới thôi miên
được nó như vậy. Tôi lo chốc nữa nó sẽ tự theo về
lán của cô mất. Tôi không có lỗi đâu nhé! À mà lán
các cô ở đâu đấy nhỉ?" Mình cũng không vừa,
mình nói: "Nhà em ở kia, ở phía cái hang kia kìa.
Hôm nào từ chiến trường quay ra, cứ để cái xe khó bảo
của anh rẽ vào, chồng em sẽ cho nó một trận!..."
- Giỏi lắm! Rồi anh chàng đáp sao? - một
đứa hỏi.
- Anh chàng im, nhưng chắc hiểu mình đùa.
Anh ta thấy màu trắng áo mình. Còn mình thì chẳng thấy
gì. Chỉ nghe giọng nói. ấy thế mà buồn cười lắm,
chúng mày ạ. Xe đi rồi mà không hiểu sao mình cứ thấy
bâng khuâng thế nào ấy... - Cái Lộc ngồi im một lúc rồi
đột ngột hỏi: - Chúng mày có nghĩ một ngày nào đó
anh ta sẽ vào đây không?
12 tháng 12.
Ngày đầu tiên cả năm đứa diện áo mới
đi làm. Mỗi đứa mỗi kiểu, vuốt, gấp cẩn thận rồi
đặt dưới lưng nằm suốt đêm cho thật phẳng, thành nếp
hẳn hoi như được là kỹ. Ngay từ chiều, đứa nào cũng
mặc áo mới, soi gương ngắm nghía, rồi cởi ra, rồi lại
mặc vào, đổi áo, ướm thử áo nhau mãi. Khi không còn
việc gì nữa để làm, cả bọn cứ mặc áo mới ngồi
chờ đêm xuống để ra khỏi hang, bồn chồn và sung sương
như chờ cái gì đấy thật hệ trọng.
Không biết hôm nay các chàng lái xe có nhận
thấy sự kiện mới lạ này không?
15 tháng 12.
Mấy ngày nay thằng Mĩ hoạt động đặc
biệt ác liệt. Nó quyết phá. Ta quyết giữ. Máy bay bay
suốt đêm. Pháo từ biển câu vào không còn theo giờ như
trước. Nhưng dòng xe không vì thế mà bị dừng lại. Bến
phà phải đổi chỗ nhiều lần. Kể ra, gọi là chỗ vượt
sông thì đúng hơn. Nhiều chỗ vượt sông như thế. Có
cả chỗ để nghi binh. Thiếu người, tổ phải chia ra làm
việc ở ba nơi.
Nhớ nhà quá. Nhớ mẹ quá.
Anh ấy có lúc nào nghĩ về mình không nhỉ?
16 tháng 12.
Út hy sinh! Ba giờ sáng hôm nay. Nó làm một
chỗ với Vân. Một thằng lao xuống phóng rốc-két, như
hàng trăm thằng trước đấy từng lao xuống phóng rốc-két.
Tiếng nổ bình thường, trận đánh phá cũng bình thường,
nghĩa là tất cả giống mọi ngày, thế mà sau đó Út
không còn nữa. Một mảnh đạn cắm đúng tim nó. Một mảnh
khác cắt đứt phần trên vú trái. Một tiếng sau khi nó
chết, mình mới biết. Biết mà chẳng đến được, vì
còn phải làm việc. Khi gặp Út thì trời đã sáng. Yến
đã lau sạch máu và bụi bẩn trên người nó. Một đứa
nào đó trong tổ cởi chiếc áo trắng mới còn nguyên
lành của mình mặc cho Út. Khuôn mặt Út thật thanh thản.
Đôi mắt vuốt mãi không chịu nhắm, như đang mơ màng
nhìn một điểm nào đấy trước mặt. Nó chỉ ngạc
nhiên, hơi buồn vì phải chết sớm và vô lý như vậy.
Một bên miệng của nó hơi nhếch, thơ ngây, bẽn lẽn
như hôm nào nó hỏi: "Con gái chết mà chưa được hôn,
kể cũng buồn, chị Liên nhỉ?".
Mình cúi xuống, lặng lẽ hôn lên đôi
môi của Út.
17 tháng 12.
Hôm nay đi làm về, thương Út, cả bốn
đứa ngồi ôm nhau khóc.
20 tháng 12.
Vẫn ác liệt như trước. Xe vẫn thông.
24 tháng 12.
Thế là đã ở bến phà N.V. này hơn một
tháng. Một tháng cộng với hai năm nay đây mai đó theo
các con đường của khu Bốn khói lửa. Chỉ mấy ngày nữa
là năm mới. Năm mới... mọi người sẽ già thêm một
tuổi. Mình cũng thế.
Liệu mình phải già thêm bao nhiêu tuổi
nữa trước khi chiến tranh kết thúc? Còn Út thì vĩnh viễn
ở lại với cái tuổi mà bây giờ nó có, chiến tranh
hay không chiến tranh cũng thế. Vĩnh viễn yên nghỉ với
cảm giác thanh thản của một người đã cống hiến cho
người khác cái quý nhất mình có. Đúng, thanh thản, nếu
không kể nỗi sợ rất con gái kia mà nó vẫn cảm thấy
đâu đó sâu trong lòng cho tới khi xuống mộ. Tội nghiệp
con bé...
27 tháng 12.
Xe vào nhiều quá, có lẽ sắp đánh lớn.
Ban ngày ít được ngủ hơn, vì thường đi chữa đường
giúp các đội thanh niên xung phong.
Hàng ngày bốn đứa vẫn mặc áo từ chiều,
những chiếc áo được may đẹp, gấp vuốt phẳng phiu,
ngắm nghía, sửa sang cho nhau để tối đến, như cái Lộc
một lần chua xót nói, "làm duyên với những chiếc
xe mù". Kể cũng buồn cười, biết người khác
không thấy mặt mình và mình không thấy người khác, chỉ
những cuộc gặp gỡ thoáng qua mấy phÚt, lại trong hoàn
cảnh ác liệt như hiện nay, thế mà cả tổ trước khi
đi đứa nào cũng chăm chÚt vẻ ngoài như sắp làm dâu
không bằng. Một bản năng rất con gái, có lẽ cũng chỉ
con gái mới hiểu nổi. Chao, ước gì hoà bình! Ước gì
được mặc những chiếc áo trắng này tự do đi lại giữa
ban ngày...
28 tháng 12.
Hôm nay Yến hy sinh!...
Còn lại ba người: Vân, Lộc và mình.
Mình được cử làm tổ trưởng.
Yến ơi, thương mày quá! Mày là đứa
duy nhất có người yêu chờ đợi, thế mà mày hy sinh...
Mày quá kín đáo, mày chẳng cho chúng tao biết người yêu
của mày là ai, ở đâu, để chúng tao báo cho anh ấy biết
mày là người thế nào.
31 tháng 12.
Hầu như đêm nào cũng có xe đổ và người
chết. Mỗi lần ra phà, đâu đó sâu trong tim, một ý nghĩ
nhỏ thôi, nhanh thôi, nhưng sắc như mũi dao lại nhói
lên - ý nghĩ rằng hôm nay sẽ đến lượt ai đây? -
mình, cái Vân, cái Lộc, hay thậm chí cả ba?
Trước khi bước ra khỏi hang, ba đứa nhìn
nhau im lặng, nhưng rất hiểu...
Xe vẫn thông...
4
Nhật ký của Liên ghi đến đây thì dừng.
Bất giác tôi ngước lên nhìn tấm bằng liệt sĩ lồng
kínk treo trang nghiêm trên tường. Thì ra Liên hy sinh đúng
vào ngày 31 tháng 12 năm 197..., ngày cuối cùng ghi trong nhật
ký. Cũng là ngày cuối cùng trong năm. Tôi nhẩm tính -
Liên đã không gắng sống thêm được mấy giờ nữa để
bước sang năm thứ hai mươi đẹp đẽ của đời mình.
Từ trên tường, qua lớp kính phủ nhẹ
một màng bụi mỏng, một cô bé tóc tết đuôi sam,
khuôn mặt còn trẻ con với đôi mắt thơ ngây mở to
đang nhìn tôi. Đó là Liên. Chắc đây là bức ảnh duy
nhất của con gái bà Nghĩa còn giữ được, chụp vào dịp
Liên tốt nghiệp lớp mười. Tôi không dám nhìn thẳng
vào đôi mắt ấy; không dám nhìn cả vào đôi môi đang
hé mở, đôi môi chưa một lần trong đời được biết
cảm giác của cái hôn âu yếm.
Tôi lặng lẽ trả lại cuốn nhật ký
cho bà Nghĩa, lơ đãng trao đổi thêm ít câu rồi ra về.
Sáng hôm sau, trước sự ngạc nhiên của
mọi người, tôi thu gói đồ đạc ra đi, nhưng không phải
đi Hà Nội, mà ngược lại, vào Vinh mua vé ô-tô đi Quảng
Bình, tới bến phà N.V. mà Liên nói đến trong nhật ký.
5
Ở trụ sở Uỷ ban xã S. nơi có bến
phà N.V. ngày nọ, sau khi nghe tôi tự giới thiệu và nói
rõ mục đích chuyến đi của mình, người ta chỉ cho tôi
đến gặp ông Nam, Phó chủ tịch xã.
Ông Nam là người vui tính và cởi mở.
Ông nhìn qua một lượt suốt người tôi và hỏi:
- Anh là bà con cô Liên à? - Nhưng không
chờ tôi trả lời, ông nói luôn: - Chính tôi là người
tìm thấy và đọc cuốn nhật ký đó. Tội nghiệp các
cô gái. Hồi ấy tôi là Trung đội trưởng dân quân xã.
Tôi được lệnh điều các cô dân quân của tôi dẫn xe
ở đoạn trên, còn ba cô thanh xung phong thì làm ngay sát
bến phà. Vào cái đêm cuối năm đáng nhớ ấy, hình như
độ mười giờ thì phải, bất ngờ một chiếc "Thần
Sấm" từ đâu lao đến ném một loạt bom, không lượn
vòng nào, cũng chẳng thèm bắn pháo sáng, thế mà trúng
phà, trúng luôn cả ba cô gái. Anh xem thế có đau không
... - Ông Nam dừng lại, ngồi im một chốc như cố nhớ
điều gì, rồi nói tiếp, giọng trầm hẳn xuống: - Thậm
chí đêm ấy, bận việc thông xe, chúng tôi chẳng kịp
nhặt hết các mẩu xác bị bom chặt đứt vung vãi khắp
nơi. Mãi chiều hôm sau mới tìm được hết, xác định
cái gì là của ai rồi làm lễ chôn cất. Sau này, chiến
tranh kết thúc, khi người ta định đưa các cô - cả năm
cô - vào nghĩa trang liệt sĩ xã, tôi đem chuyện nhật ký
cô Liên ra kể, và đề nghị xây riêng mộ cho các cô
ở cạnh bến phà cũ. Ý kiến của tôi được chấp nhận.
Bây giờ ta ra đấy chứ?
Nói rồi, ông Phó chủ tịch xã hăm hở
đi trước, tắt qua một cánh đồng lúa vừa trổ bông
thoang thoảng hương thơm, về phía dòng sông L. đang trải
rộng, trắng lóa dưới ánh mặt trời tháng Tư. Tôi lặng
lẽ bước theo, với cảm giác hồi hộp như sắp được
chứng kiến một cái gì đấy linh thiêng và vĩ đại.
Trên đỉnh một ngọn đồi xanh vươn sâu
tận mép sông, người ta xây mộ năm cô gái thanh niên
xung phong thành năm cánh của một bông hoa, đầu chụm vào
nhau. Một bông hoa màu trắng - (vì mộ đều được quét
vôi trắng). Các bia đứng hầu như kề nhau, tạo thành một
hình tròn có trồng những bông hồng và cúc lẫn lộn, tức
là làm nhị của bông hoa xi măng trắng vĩ đại. Trên những
tấm bia ấy tôi đọc thấy tên cô Yến tổ trưởng nghiêm
khắc; tên cô Vân ưa diện; tên cô Lộc mơ hồ chờ đợi
một chàng lái xe mà cô chỉ mới trò chuyện một lần
nhưng không thấy mặt; tên cô Út bé nhất tổ chỉ sợ
duy nhất một điều là chết mà chưa được hôn. Và tất
nhiên tôi thấy cả tên của Liên, cô hàng xóm, cô bạn
cùng trường của tôi, người con gái đưa tôi vượt hàng
trăm cây số đến đây, và quan trọng hơn là đã giúp
tôi tự nhìn nhận lại mình, tự đánh giá ghiêm khắc
những gì tôi đã, đang và sẽ làm trong đời.
- Nghĩ mà thương các cô gái, - vừa bật
lửa châm hương, ông Nam vừa khe khẽ nói. - Đang tuổi
ăn diện mà đến cái áo trắng cũng không được mặc
ban ngày. Còn bây giờ thì...- ông ngập ngừng chốc lát
rồi quay sang bảo tôi: - Những ngôi mộ này, anh ạ, cứ
đều đặn nửa năm một lần tôi cho quét vôi mới…
Ông Nam còn nói thêm điều gì nữa nhưng
tôi không nghe rõ, vì lúc ấy tôi đã bỏ đi xa, tìm nhặt
những bông hoa bướm, hoa mua mọc nhiều quanh đấy. Một
chốc sau, tôi quay lại với một bó lớn trong tay. Tôi
chia đều thành năm phần, nhẹ nhàng đặt lên năm cánh
trắng của bông hoa xi măng. Rồi vô tình như hẹn trước,
cả tôi và ông Nam cùng cúi đầu đứng lặng mấy giây.
- Liên ơi, hãy tha lỗi cho tôi Liên nhé!
*
Sáng hôm sau, tôi lên đường ra Hà Nội.
Từ ô-tô, tôi thò đầu qua cửa sổ, ngoái nhìn mãi những
ngôi mộ màu trắng được xếp thành hình một bông hoa
trên ngọn đồi xanh, trông xa như chiếc nơ trên đầu một
cô gái. Suốt đường đi, những ý nghĩ đượm buồn cứ
quanh quẩn trong đầu tôi, ý nghĩ rằng ngày xưa đã từng
một thời có nhiều cô gái chỉ thèm được một lần mặc
áo trắng tự do đi lại giữa ban ngày, ấy thế mà các
cô chỉ được mặc vào ban đêm để làm nhiệm vụ, để
"làm duyên với những chiếc xe mù". Và rồi các
cô hy sinh, lặng lẽ mang theo xuống đất cùng tuổi trẻ
là cái ước mơ tưởng vô cùng đơn giản ấy, cũng như
các cô đã lặng lẽ lập những chiến công, lặng lẽ
yêu, lặng lẽ ra đi để một ngày nọ, như trong câu
chuyện cổ tích, lặng lẽ biến thành những cánh hoa
màu trắng, cái màu trắng phải đổi bằng màu của
máu...
Thái Bá Tân