Nó quỳ thụp xuống chắp tay vái ông Sáu,
đủ ba lạy. Xong, tưởng chừng
như định đứng lên thì nó lại chồm
tới gục vào người ông Sáu ôm chặt lấy
thân hình bê bết máu của ông. Đôi vai gầy
của nó rung lên nức nở. Và từ cổ họng
khô đắng của nó chợt bật lên hai tiếng:
"Thầy ơi!"Người mà thằng Tý
thích nhất, quý trọng nhất là ông Sáu. Và cũng
chính nó lại là người không ưa ông Sáu vô
số kể.
Nhiều lúc nó đưa mắt ngắm nhìn ông
thật lâu. Nó cố phân biệt trong cái vóc dáng
thấp đậm cùng với nước da rám nắng,
nâu bóng lên đến tận khuôn mặt bành bạnh,
ẩn chứa đôi mắt lúc nhân hậu, hiền
từ, lúc lạnh lùng, nghiêm khắc kia, ông Sáu
nào là của nó? Phải chăng trên đời lại
có 2 ông Sáu nhập thành một?
Tý mười bốn, mười lăm tuổi
đầu mà lúc nào ông Sáu cũng vẫn cứ
coi nó như là con nít, kèm cặp nó hoài. Lỡ một
câu chửi thề cũng bị ông Sáu trừng mắt,
lại còn móc lò: "Cái xấu không ai dạy, sao
con học nhanh quá vậy?".
Học! Mỗi lần nghe nhắc tới chuyện
học, nó lại nhìn ông, hằn học.ở cái
trạm giao liên này, ông Sáu không là trạm trưởng
cũng không phải trạm phó, chẳng là giao
liên. Nghĩa là ông không có một chức danh nào cả.
Ông chỉ là người ăn đậu, ở nhờ,
làm ba chuyện lặt vặt. Chẳng hạn như
nấu cơm, nấu nước, lo ba vụ mắm
muối, giường sạp, vậy thôi. Thỉnh
thoảng lúc kẹt người, ông cũng
được giao đôi ba việc đại sự
như đưa thư từ, tài liệu hoặc dẫn
đường cho mấy anh cán bộ đi công
tác lẻ. Vậy mà đối với nó, lúc nào
ông cũng làm ra vẻ ta đây: "Tý! Từ rày
về sau hễ người lớn kêu phải dạ.
Ai dáng bậc cha chú phải xưng cháu, xưng con,
ai đáng bậc anh, chị phải xưng em cho lễ
phép một chút. Con cứ tui tui hoài là không có
được, nhớ chưa".Đến nỗi
đang bữa cơm cũng bị rầy:
"Ăn phải xem nồi, ngồi phải xem
hướng". Nhiều lúc nó muốn bỏ
quách cái trạm giao liên này mà đi. Khốn nỗi,
nó cũng chẳng biết phải đi về
đâu bây giờ.
Cha nó là du kích, hy sinh trong một trận chống
càn lúc nó vừa lên 7 tuổi. Mẹ nó đi
bước nữa rồi biệt tăm luôn. Nó sống
với nội. Mười bốn tuổi, nó còn phải
đi ở đợ chăn trâu. Đêm bộ
đội về đánh bót Bà Thửa, nó vui như
được đi trẩy hội. Nó dẫn
đầu một đám nhóc choai mang vác giúp các
chú bộ đội bao nhiêu là thứ chiến lợi
phẩm. Bộ đội rút, nó về xin nội rồi
lén trốn đi theo. Chú chỉ huy dựng cây súng
trường vừa ngang vai nó bảo: "Cháu còn
nhỏ quá chưa thể đi được. Cứ
ở lại trạm giao liên này ràng ăn cho chóng
lớn. Chú hứa hai năm sau sẽ về đón
cháu". Nó không còn biết làm sao đành phải
ở lại cái trạm giao liên này.
Nó cảm thấy mình có ích, được việc
hơn ông Sáu nhiều. Công văn khẩn, thư hoả
tốc, vù một cái nó đã đưa đến
những nơi cần đưa. Bộ đội
hành quân, nó đi trước dò la động
tĩnh, thấy êm mới quay lại dẫn
đường. Chuyện gì được giao, nó
cũng làm tròn, trót lọt. Nhiều lần
được khen, nó lại nhìn ông Sáu như ngầm
bảo: "ở đây tui oai hơn ông nhiều".
Vậy mà chú Tư Hầu trạm trưởng lại
phán một câu xanh rờn: "Tý! Tao giao mày cho ông
Sáu. Mọi chuyện nhất nhất phải nghe lời.
Quân lệnh đó".Lệnh của ông Sáu nhiều
cái thiệt oái ăm. "Tý! Chiều nay phải
kiếm cho đủ ba bó củi nghe, lệnh đó".
"Tý! Lệnh xách cho đầy hai lu nước,
sao vơi thế này? Chấp hành thế hả?".
"Tý! Đấm cho tía cái lưng. Sao hồi này
tía nhức quá trời". "Tía lệnh hả?".
"ừa, lệnh đó, chấp hành nhanh lên. Ui
cha! Nhức ơi là nhức".Chẳng biết
lúc nào lệnh thiệt. Chẳng biết lệnh
nào ổng đùa. Tất tật mọi chuyện
đối với nó đều lệnh cả. Nhiều
lúc vui đáo để. Lắm lệnh buồn
cười đến vỡ bụng. Và, cũng không
ít lệnh như dấm ớt, chua lòm, cay nồng
cả mặt.
Dẫu vậy, riết rồi quen. Càng ngày nó
càng cảm thấy thích ông Sáu, thương nữa.
Đôi khi trong tâm hồn thơ trẻ của nó cứ
mơ tưởng, ước ao một điều
gì đó xa xôi nhưng thiêng liêng lắm. Mà điều
đó chỉ toát ra từ ông Sáu.
Ông Sáu thương nó nhất, nó biết. Nhưng
nó không hiểu tại sao đã thương, ông
Sáu lại thường hay nghiêm khắc với nó.
Mấy lần nó không thuộc bài, ông còn đe doạ
đánh đòn. Vậy nhưng hễ nó bệnh,
ông lại lo đến mất ăn, mất ngủ.
Có bữa nó dầm mưa đi bắt cá, đêm
về sốt hầm hập, li bì. Trong lúc mê man,
nó cảm thấy trên trán mình mát lạnh. Lối
chừng nửa đêm tỉnh giấc, nó thấy
ông Sáu ngồi cạnh bên đang nhẹ nhàng chườm
khăn cho nó. Thấy nó tỉnh, ông reo lên như một
đứa trẻ: "Tý! Con tỉnh rồi hả?
Trời ơi! Con làm tía lo hết hồn. Từ
rày về sau nhớ đừng có đi như vậy
nữa nghe".
Nó cảm động rơi nước mắt. Bởi
lâu lắm rồi, ngoại trừ nội nó ra, nó
chưa từng được đón nhận những
tình cảm như vậy. Nó thầm khát khao, mơ
ước, giá như sông Sáu chính là cha ruột của
nó. Nó còn ước thêm, giá như sau mỗi câu
yêu thương, quan tâm, săn sóc, ông Sáu đừng
bao giờ kèm theo những lời giáo huấn "từ
rày về sau không được thế này, đừng
làm thế kia". Được vậy, đời
nó sẽ hạnh phúc biết nhường nào.
Trong những ngày nó bệnh, ông Sáu tự tay nấu
cháo, đút cho nó từng muỗng. Nó cảm cái
tình đó lắm. Tự nhiên nước mắt của
nó cứ rớt ra hoài. Giá như nó được
nhõng nhẽo, được nũng nịu đòi
ông Sáu phải thế này, thế kia. Tỉ như
cháo sao mà nhạt, phải thêm vô mấy muỗng
đường nữa kìa. Hoặc giả làm bộ
như đắng mồm, đắng miệng, cháo
đường ăn riết ngán, đòi cho
được tô cháo cá lóc. Rồi nó mường
tượng ông Sáu lầm lũi đi thả
lưới, giăng câu. Cứ thế, nó ước
hết điều này lại mơ đến chuyện
nọ rồi ngủ thiếp đi trong mộng mị.
Tỉnh dậy, nó ngửi thấy mùi cháo cá phảng
phất quanh bên. Ôi chao! Cái mùi hành phi nưng nức
lỗ mũi. Mùi cá đồng luộc vừa chín
tới, gỡ ra xào lại cho săn, chế vô
chút nước mắm, chưa ăn đã thấy
tê tê đầu lưỡi, ngọt thấu tận
ruột gan. Nó đang mơ chăng? Tự tay vèo
vào đùi một cái rõ mạnh, nó thấy đau.
Không! Nó không nằm mơ. Choàng mở mắt, nó
đã thấy ông Sàu kề bên, trên tay là tô cháo
cá đang bốc hơi nghi ngút.
Mấy ngày sau khỏi bệnh, nó thấy ông Sáu
không đả động gì. Không lệnh nó
đi kiếm củi, cũng chẳng bảo đi
xách nước, chuyện công văn, giấy tờ,
ông rốt ráo tự lo một mình. Không được
làm việc gì, nó cảm thấy ngứa ngáy chân
tay, bứt rứt không yên. Bỗng dưng nó thèm
được nghe lệnh của ông Sáu quá trời.
Lệnh gì cũng được, miễn là
được nghe ông lệnh. Kể cả cái lệnh
mà nó ghét cay, ghét đắng đến nỗi ghét
luôn cả ông: "Tý! Đi vô học bài".
Từ nhỏ tới giờ, nó chưa từng
được đi học. Nay buộc phải ê a
đánh vần từng chữ, nó chịu không có
thấu. Thói thường hễ chuyện gì không
thích, có ép cũng bằng thừa. Nó học
được chữ này lại quên mất chữ
kia. Ráng cho vô tai này nó lại lén trốn sang tai nọ
đi mất. Đã thế, có lần chú Tư Hầu
còn dặn nó phải kêu ông Sáu bằng thầy.
Ông Sáu mà thầy ư? Không! Không thể!. Dẫu
nó cũng biết được mang máng rằng
ông Sáu trước đây vốn là một ông
giáo làng truyền gõ đầu bọn trẻ. Một
trái đạn pháo mồ côi của giặc rơi
trúng giữa nhà, những người thân của
ông không còn một ai cả. Lang thang, phiêu bạt,
ông dạt đến trạm giao liên này. Chú Tư
Hầu, anh Chín Liêm và cô út Thảo thỉnh thoảng
có chuyện gì cần nhờ ông giải thích đều
một điều thưa thầy, hai điều
thưa thầy nghe có vẻ cung kính lắm."Nhất
tự vi sư, bán tự vi sư" gì nó không cần
biết. Giải thích với nó cũng như không.
Đừng nói tới một chữ, dù ông Sáu có
dạy nó hàng trăm chữ đi nữa nó cũng
không thể kêu ông Sáu bằng thầy. Bởi trong
trí óc non trẻ của nó, ông thầy phải là một
người cao lớn, đi giày da, đội nón
kết, xách cặp táp chớ đâu như ông Sáu
chỉ mặc độc mỗi bộ bà ba đen
lại còn đi chân đất. Vì thế, lời
dặn của chú Tư Hầu, nó lờ đi,
chưa bao giờ nó mở miệng kêu ông Sáu một
câu bằng thầy.
Một tuần nay thằng Tý mắc bám lộ 4
nắm tình hình để đưa bộ đội
vượt qua. Chỉ một tuần thôi, sao mà nó
nhớ ông Sáu da diết. Càng nhớ bao nhiêu, nó
càng cảm thấy có lỗi với ông Sáu bấy
nhiêu. ở với các chú bộ đội, nó
được các chú khen quá trời, nào ngoan
ngoãn, lễ phép, nào chưa có ai nghe nó văng tục,
chửi thề. Càng được khen bao nhiêu, nó
càng tiếc bấy nhiêu. Giá nó chịu nghe lời
ông Sáu chăm chỉ học chữ, giờ
đưa ra khoe, chắc còn được các chú
khen nhiều hơn nữa. Nó thầm nghĩ trong lòng
lần này về nhất định sẽ cố gắng
học hành đâu ra đấy. Học để
sau này còn khoe với các chú, học để cho
ông Sáu vui lòng.Sau khi hoàn thành nhiệm vụ
đưa bộ đội vượt qua lô 4 an
toàn, nó vội vàng quay ngay về cứ. Dọc
đường, khi qua các toạ độ chết,
nó không thèm canh giờ suýt chút nữa dính phải
pháo bầy. Nó không dính nhưng lại gặp cô
út Thảo cũng trên đường đi công
tác về bị dính pháo. Một miếng găm vào
đùi, một miếng găm vào bên má làm cô út
Thảo không sao nói được. Gặp nó, cô
út Thảo mừng rối rít, ráng sức lấy
tay ra hiệu cho nó. Hiểu ý, nó lấy từ túi
dết của cô út một cuốn tập học
trò và một cây viết chì. Cô út Thảo ghi nguệch
ngoạc vào đó mấy dòng trao cho nó rồi ngất
xỉu.Thằng Tý xoay xoay tờ giấy trên tay nhưng
không tài nào đánh vần nổi. Nó vò đầu
bứt tai hết nhìn vào tờ giấy lại nhìn
sang cô út. Máu từ vết thương của cô
út Thảo vẫn ri rỉ. Mặc, phải cứu
cô út Thảo trước. Xé đôi chiếc khăn
rằn, thằng Tý hì hục băng bó cho cô út rồi
ráng sức cõng cô về trạm quân y của huyện.
Tới nơi, bàn giao cô út Thảo xong, sực nhớ
tới cuốn tập, nó nhờ một cô y tá
đọc hộ. Trời đất như ngả
nghiêng, hai tai nó ù đặc. Nó không thể nghe nhầm:
"Cứ bị lộ, địch sắp càn, di
chuyển ngay". Hôm qua tới giờ, lại thêm
một buổi từ đây về cứ. Không kịp
nghỉ ngơi và cũng không kịp chào cô y tá một
tiếng, nó nháo nhào lao bắn đi như một
mũi tên.Thằng Tý đứng như trời trồng.
Cảnh tượng làm đôi mắt nó trừng
lên như muốn rách toạc. Mấy cọc lán
làm bằng thân trâm bầu vẫn âm ỉ cháy.
Đồ đạc tung toé, lỏng chỏng mỗi
thứ một nơi. Cạnh nền nhà, xác chú Tư
Hầu nằm chúi về phía trước một
tay bị đè ấp dưới ngực, một
tay vươn về phía trước, bàn tay co quắp
như còn nắm một vật gì. Dưới bếp,
mâm cơm còn dang dở, lật nghiêng một bên. Cạnh
đó, nhiều vết máu loang lổ đã đổi
màu đen thẫm. Bầy ruồi thấy động
vù vù bay lên rồi ngay tức khắc lại sà xuống.
Cổ họng thằng Tý nghẹn đắng. Nó
lao tới bên mâm cơm nhìn quanh quất rồi
không còn kìm giữ được, nó vươn cái
cổ nghẹn đắng gào lên: "Tía! Tía
ơi... ơ... ơi!".
Tiếng thằng Tý loãng ra chìm dần trong tiếng
lá cây xào xạc. Vậy là ông Sáu đã bị
chúng bắt đi rồi. Chợt mắt thằng Tý
nhìn chăm chăm. Từng vệt máu nhỏ dần
cách quãng về hướng sau vuông vườn. Lần
theo vết máu, nó bật thốt lên: "Khu tử
địa!". Mặc cho những cành cây đâm
ngang bịt lối, nó cứ ráng bươn về
phía trước.
Một vùng đất toang hoác, cây cối gãy
đổ ngổn ngang ghìm bước chân thằng
Tý lại. Nguyên một tiểu đội thám báo
11 tên, đứa sõng soài, đứa co quắp nằm
rải rác bất động. Bước chân thằng
Tý mỗi lúc một khuỵu dần. Ông Sáu nằm
đó trong bộ bà ba đen rách nát. Đôi mắt
ông mở to. Không còn vẻ lạnh lùng, nghiêm khắc
cũng không đượm vẻ nhân hậu, hiền
từ. ánh mắt như toát lên một niềm
kiêu hãnh. Đôi môi ông hé mở. Hình như trước
lúc chết, ông đã nở một nụ cười.
Nỗi ân hận trong lòng thằng Tý mỗi lúc một
dâng cao. Nó quỳ thụp xuống chắp tay vái
ông Sáu, đủ ba lạy. Xong, tưởng chừng
như định đứng lên thì nó lại chồm
tới gục vào người ông Sáu ôm chặt lấy
thân hình bê bết máu của ông. Đôi vai gầy
của nó rung lên nức nở. Và từ cổ họng
khô đắng của nó chợt bật lên hai tiếng:
"Thầy ơi!"./.
Đậu Viết Hương