|
Trăng
nơi đáy giếng
"Tôi xin mình. Mình dẹp giùm tôi mấy cái bàn thờ
này đi. Chuyện mê tín dị đoan, đâu hay ho gì". Giọng
thầy Phương vẫn từ tốn như thường lệ, nhưng đổi
bàn tay liên tục gõ xuống bàn chứng tỏ tâm trạng thầy
đang bức xúc...
Cô Hạnh chỉ lặng lẽ nhìn: người đàn ông này đã
là người cô thương yêu, tôn thờ cho đến nửa đời
người. Trước đây, mỗi cái nhìn của ông là mệnh lệnh
đối với cô vậy mà nay cô phải trái ý ông. Ý nghĩ đó
làm cô rơm rớm nước mắt.
Hơn mười mấy năm, họ đã sống chung nơi căn hộ bé
nhỏ này. Mỗi sáng, người trong xóm đều thấy cô Hạnh
xách tô ra đầu ngõ mua bún cho chồng. Những hôm mưa lâm
thâm, cái dáng gầy của cô co ro, tay cô cầm chiếc nón
cố che cho kín tô bún, chứ chẳng nhớ che đầu. Thầy
Phương người nho nhã, mảnh mai, trắng trẻo. Vốn là
con nhà dòng dõi, lại được cưng từ nhỏ nên thầy
kén ăn, phải chăm từng ly từng tý.
Nói là kén ăn, không phải là thầy đòi hỏi cao lương
mỹ vị, mà chỉ cần những thứ đơn giản thôi, nhưng
phải biết ý mới chiều được. Bữa ăn không cần thịt
cá, đôi khi chỉ cần đĩa bông bí chấm nước tôm kho
đánh, nhưng nước tôm phải thật sánh, thật thơm, đỏ
rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa
thiên lý, tô canh dìu dịu mùi hương ngọt ngào. Đêm
khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi dưỡng,
nhưng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều
thì vài lóng mía tiện thật sạch sẽ, ửng mầu đỏ cầm
rượu.
Căn nhà nhỏ, không có đồ đạc gì xa hoa, nhưng sạch
như lau như ly. Tính thầy Phương rất sợ bẩn. Trong bếp,
phòng tắm, những cái chậu đủ mầu được cô Hạnh đặt
đúng vị trí của chúng, tất cả đều khô ráo, sạch sẽ.
Cái chậu rửa mặt không lẫn với chậu tắm, cái chậu
giặt áo không lẫn với chậu giặt quần. Giặt giũ
phơi phóng xong, cô Hạnh phải tháo dây ngay, vì thầy Phương
không bao giờ đi qua dưới dây phơi, cho dù quần áo đã
cất hết.
"Ôi dào, thời buổi bây giờ mà sao ông ấy còn
tinh tươm quá, này, coi chừng chứ... chậm con là vì quá
sạch đấy". Các bà hàng xóm đùa. Trong khu tập thể
này, các bà đều là cán bộ, việc cơ quan, việc nhà cứ
ùn lên, ai cũng bết bát, chẳng có thời giờ mà chiều
chồng. Các ông chồng trong xóm nào là chẻ củi, đi chợ,
đón con, chẳng từ một việc gì, chỉ riêng thầy Phương
được hưởng ngoại lệ. Thực ra, đâu có phải vì thế
mà hơn mười năm không có con. Cô Hạnh biết thừa điều
đó nên nghe người ta đùa, cô chỉ cười...
Ở đầu ngõ, ngay cổng vào khu tập thể là nhà bà
Thu, thư ký Công đoàn trường Thuận Đạt. Ngày ấy, bà
Thu đã hội ý xong với Ban Chấp hành Công đoàn trường
và quyết định đến thăm chính thức cô Hạnh. Vì lý
do tế nhị của cuộc thăm viếng, bà đã cẩn thận chờ
cho đến lúc thầy Phương đạp xe ra khỏi nhà được
hơn hai mươi phút.
"Vì trách nhiệm, tôi buộc lòng phải thông báo
cho chị Hạnh biết: Người ta đồn anh Phương có vợ nhỏ,
Công đoàn và Đảng ủy đã tiến hành kiểm tra, thật
đáng tiếc, việc này hoàn toàn chính xác".
Cô Hạnh nghe, ngồi nhìn thẳng vào mắt bà Thu, không
tỏ vẻ ngạc nhiên. Trái lại, bà Thu kinh ngạc đến hụt
hẫng trước vẻ bình thản của người vợ bất hạnh:
bà cứ tưởng cô Hạnh sẽ ngất đi, hoặc ít ra cũng níu
lấy bà mà hỏi vặn đủ điều. Nhưng không, cô cứ lặng
lẽ, dịu dàng, dường như cố nén nỗi khó chịu vì bị
quấy rầy!
Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: "Chuyện
đến thế, chị tính sao? Chị phải có thái độ đi chứ?
Hay chị là Phật đất?".
Cô Hạnh thở dài:
- Hoàn cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng
chẳng oán trách.
- Nói thế, nghĩa là chị đã biết anh ấy phản bội
chị mà cố tình giấu giếm tổ chức?
"Anh ấy không phản bội tôi" cô Hạnh ngẩng
phắt lên. Vâng, dù rằng ông Phương đã có một người
đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra, ông vẫn
là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng
lời khi nói về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện
này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì không chịu
nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông.
"Không phải dễ dàng mà thuyết phục được anh
ấy bởi vì anh ấy quá thương tôi. Hơn nữa, là người
có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ, ép uổng,
hứa giữ bí mật cho anh ấy...".
Bà Thu cau mày, "Sao chị lại làm thế? Chị có biết
như vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy
anh ấy vào con đường hủ hóa!".
Cô Hạnh khóc. "Vâng. Có thể là như vậy, nhưng lúc
ấy tôi không nghĩ gì hết. Tôi chỉ muốn anh ấy sung sướng".
Vâng, khi người ta thực lòng thương yêu nhau, có điều
gì mà không thể hy sinh. Một cô gái quê bỗng chốc được
cô Hạnh chăm lo từng ly từng tý: từng chục trứng gà,
từng chai mật ong được chuyển về làng để tẩm bổ
cái thai mới thành hình. Rồi đến ngày cô được đền
bù: Đứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn
trong lớp tã. Ông Phương quàng vai cô, vỗ về: "Con
của em đó". Nghe chồng nói, cô ứa nước mắt vì
sung sướng...
Nhưng giờ đây, ngồi trước mặt bà Thu, cô mới thấy
chuyện đời không đơn giản. Sắp đến kỳ bầu tín
nhiệm hiệu trưởng rồi... Ông Phương bảo:
- Chức hiệu trưởng là cái gì... Bỏ, bỏ hết. Với
tôi, chỉ cần mình vui lòng. Tôi chấp nhận mất tất cả.
Ông nói thế, nhưng rồi không giấu được vẻ buồn.
Lại cái vẻ buồn thầm lặng làm xót lòng cô. Cả đời
ông sống nghiêm túc không để ai nói tiếng nặng tiếng
nhẹ bao giờ. Giờ đây, tưởng tượng tới khuôn mặt
những người lâu nay vẫn đố kị với ông... Họ sẽ hả
hê biết bao trước cái tội lỗi rành rành của vị thủ
trưởng đáng kính. Họ sẽ rung đùi, cười khẩy chờ
ông đứng lên nhận tội... Để rồi khoái trá xúm lại
tố khổ ông, như bày sói túm lại xé con mồi...
Quả thật, cái tin "ông Phương hai vợ" vừa
được tung ra, đã có vài ba người rắp ranh ngắm nghé
cái ghế ông đang ngồi. Cuộc bầu tín nhiệm được tổ
chức vào đầu tháng ba, trước dự kiến như là ngày
chôn vùi luôn sự nghiệp của ông hiệu trưởng nổi tiếng
quản lý giỏi, đã đưa trường Thuận Đạt thành một
trường tiên tiến dẫn đầu tỉnh trong hơn năm năm.
Người ta chờ ông Phương đứng dậy rút lui và tự kiểm
điểm, nhưng sao lâu quá chẳng thấy động tĩnh gì... Sốt
ruột quá, một vị đứng dậy cắt ngang lời ông Phương
khi ông đang còn trình bày "chương trình hoạt động"
mà ông dự kiến sẽ thực hành trong thời gian tới:
- Chuyện năng lực của anh Phương thì có gì phải
bàn nữa, dài dòng làm chi mất thời gian. Chỉ có điều,
dư luận đang râm ran chuyện gia đình anh, anh em tui rất
hoang mang. Vì, lãnh đạo thì không chỉ có tài mà phải
có đức...
Ông Phương không nói, chỉ lặng yên bình thản nhìn kẻ
địch thủ đang hân hoan, đắc thắng, rồi lại bình thản
nhìn cái vẻ hân hoan, đắc thắng đó xẹp xuống, nhăn
nhúm lại như một quả bóng xì thất vọng. Bởi vì cô
Hạnh đã đứng dậy đưa ra trước Hội đồng tờ giấy
chứng nhận ly hôn giữa cô và ông Phương cùng tờ giấy
đăng ký kết hôn giữa ông Phương với vợ mới. Lúc đó
cả hội trường mới biết rằng, trên pháp luật, ông
Phương chẳng có lỗi gì... Nghĩa là cái chức hiệu trưởng
của ông, lấy búa tạ mà nện cũng không thể nào rung
rinh nổi.
Không rung rinh nổi, nhưng người ta vẫn cứ tìm cách
nện. Lòng người đầy ham muốn, đâu có buông tha cho
ông Phương qua ải một cách dễ dàng như thế. Vì vậy,
trọn năm sau, ông Phương quả là lao tâm khổ tứ, ở
không yên ổn, ngồi không vững vàng.
Lại một lần nữa, bà Thu phải đến thăm riêng cô Hạnh.
- Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dư luận
để bảo vệ chị, nhưng mà người ta không thể thông cảm
như tôi. Nói chị đừng buồn, hoàn cảnh chị rất gay.
Chị đã phạm pháp mà không biết: sống chung như vợ chồng
với chồng của người khác!
Cô Hạnh sững sờ. Giờ đây ông Phương có còn là chồng
của cô nữa đâu? Cô nhìn thằng bé đang thiêm thiếp ngủ
trong tay, run rẩy. Cô biết, người ta đang lôi tuột ông
ra khỏi tay cô. Cô sẽ phải xa ông, bất giác cô ôm chặt
lấy cu Nhứt, như cố níu giữ cái phiên bản của người
đàn ông mà cô tôn thờ...
***
Lại một lần nữa, tôi phải năn nỉ anh. Tôi không
đành lòng thấy anh cứ gầy rọc đi, mắt trõm lơ, râu
mọc xanh cả cằm. " Quân
tử ứ hự đã đau, Tiểu nhân dùi đục đập đầu như
không".
Anh vẫn thường nói thế. Con người anh tinh tế, tự trọng,
chịu sao nổi bao nhiêu lời ong tiếng ve. Đành lòng dốc
hết tiền của góp nhặt trong mười mấy năm mua một
căn nhà ở ngoại ô cho anh ấy đưa cô Thắm lên. Lúc
ấy, Thắm lại đang có thai. Thương tôi, anh không chịu
rời đi, tôi phải cắn răng làm mặt giận, cấm lửa nhịn
đói suốt mấy ngày...
Anh đi rồi, căn nhà trống đến khủng khiếp. Đi làm
về, tiếng mở cửa tiếng bước chân tôi cứ vang lên lạnh
lẽo như từ thế giới nào. Vào đến gian bếp, nhìn thấy
chiếc may ô của anh còn sót lại trên dây phơi, tôi sụp
xuống, nức nở khóc...
Thỉnh thoảng anh cũng về thăm tôi. Nhưng anh về một
chút rồi lại đi. Tôi không dám trách. Sắp đến đại
hội chi bộ, phải giữ gìn. Anh có muốn nấn ná tôi cũng
giục anh đi cho được. Anh bảo: "Mình đừng buồn.
Tôi nói với mình đinh ninh từ khi chưa ly hôn. Nay cũng
thế, tôi ở bên ấy nhưng thực ra chỉ có mình mới là
vợ của tôi". Tôi nghe, chỉ biết khóc. Vợ chồng
mà gặp nhau lén lút như thế này; cái số tôi sao mà trớ
trêu? Có hôm bị bệnh nằm một mình không dám nhắn chồng,
tôi đành nhắn người mời bà đồng Thơi đến chích lễ
giải cảm. Bà Thơi vừa nặn máu cho tôi vừa bảo:
"Khí đen tụ ở giữa hai chân mày. Cái uất nén
trong lòng mà thành bệnh". Tôi lắc đầu: "Tôi
không uất, không phiền. Chỉ vì mệt mỏi quá ". Cô
Thơi sửa lại áo khăn thắp nén hương giữa trời. Hôm
ấy rằm, trăng sáng. Cô Thơi niệm khấn rồi cầm chén
nước trong bảo tôi uống. "Để tôi xin cho chị một
quẻ Thánh". Cô Thơi xủ quẻ rồi nói: "Quẻ của
chị là quẻ lộng giả thành chân. Đêm
trăng nơi đáy giếng, thấy bóng chẳng thấy hình.
Cứ theo quẻ này giả hóa thực, thực hóa giả, giả thực
thực giả khó lường". Tôi cũng không tin mấy, chỉ
cảm thấy dễ chịu vì có người quan tâm. "Việc
gì thực hay giả, mà giả thực liên quan gì đến bệnh
cảm của tôi?". Cô Thơi nghiêng đầu như làm duyên,
cặp môi son hé cười: "Lời Thánh sâu xa, nhiều khi
đến việc mới hiểu".
Đại hội Chi bộ đã qua, anh lại được tín nhiệm
cao. Tôi mừng. Tôi nhắn Thắm săn sóc anh cho chu đáo.
Không có ai khó chăm như anh. Cái gì cũng phải sạch, phải
tinh tươm. Áo quần gấp xong nhớ đặt vào tủ, ngay ngắn,
bộ nào sắp mặc thì đặt ở cuối giường chứ đừng
đặt đầu giường. Chỗ anh ấy ngồi viết thì phải
tinh tấn, ngăn nắp, đừng qua lại nhiều làm phiền anh.
Tôi dặn gì, Thắm cũng nhất nhất vâng dạ. Thấy Thắm
ngoan, tôi mừng.
Tết đến, tôi lo mua nếp gói bánh. Năm nay nhà đông
phải gói nhiều. Đang loay hoay tìm mua lá dong, chợt nghe
nói bà Thu sắp có dịp về quê, tôi lật đật sang nhờ
bà ấy mua giúp. Vào đến cửa, tôi chững lại khi nghe
tiếng anh Phương, rồi tiếng Thắm. Một giỏ quà, ý chừng
đồ đi tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cười: "Không
có tôi thì anh chị còn mỗi người một nơi đến bao giờ?
Nhưng mà nói vậy chứ không nhận quà này đâu nhé. Bày
vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "Ấy,
chút quà xin chị nhận cho, của thảo lòng thành".
Tôi rụng rời, không nhận ra được giọng của cô gái
quê thơ ngây chất phác sáu năm về trước... Bà Thu ngọt
ngào: "Cái cô Thắm này khéo thật, chả trách bà Hạnh
cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cười
"Chị ấy tưởng thế thôi chứ thực ra trước khi bà
thím giới thiệu với chị thì anh Phương đã gặp em mấy
lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ
khéo, trách gì chẳng thành đôi". Họ cười, tiếng
cười vui vẻ râm ran trong đêm yên ả...
Tôi rút lui, suýt ngã khi xuống thềm. Rồi cứ đi
trong đêm như người ngây, mãi đến lúc bước vào một
ngôi nhà, ngửi thấy mùi nhang trong không gian, và nhận
ra mình không hiểu từ lúc nào đã đến nhà cô đồng
Thơi. Tôi ngồi sụp xuống nền nhà mà khóc, nhớ lại lời
cô nói với tôi đêm trăng hôm nào. "Nín đi em. Em giỏi
nín đi. Rồi cô soi cho, cho thấy hết tiền oan nghiệp chướng".
Cô Thơi dỗ tôi như dỗ trẻ con. Mãi thấy tôi cứ tỉ
tê khóc, cô nạt: "Sao lại khóc? Mất gì đâu mà
khóc. Cái mất, thực ra đã mất từ lâu rồi. Chừ còn
ôm huyễn mộng mà kêu trời như con đười ươi ôm cái
ống tre rỗng mà cười một mình giữa núi". Lời
cô Thơi làm tôi tỉnh ra. "Tôi sai rồi, còn oán ai.
Người ta là vợ chồng, đã có con cái. Còn tôi..."
tôi chỉ là một vật thừa... Cô Thời hứ một tiếng,
đỏng đảnh: "Đã thương thì thương cho trót, đã
vót thì vót cho tròn. Đã giữ thì giữ riết luôn, đã
cho thì cho đứt". Tôi bỗng ngượng ngùng, không
khóc được nữa. Ừ, đã cho thì cho đứt luôn, sao tôi
đã nói hy sinh mà còn tiếc nuối. Nhưng là người có
máu có thịt, làm sao bỗng chốc cắt lìa? Tôi đâu có
phải Thánh mà một phút dứt bỏ nửa cuộc đời. Không,
không phải nửa cuộc đời, anh là cả cuộc đời tôi...
Tết năm ấy, tôi sốt li bì, suốt ba tuần rụng gần
nửa đầu tóc.
Chiều mồng ba tết, mở mắt ra, thấy anh Phương và
Thắm ngồi trước giường. Tôi thở dài, se thắt. Tôi
mong gặp một mình anh, một lần. Để tôi mơ ước được
mạnh trở lại, được để dành cho anh cái thau sạch,
cái khăn sạch, lựa cho anh củ khoai thật bùi thơm ăn
khuya, đọc sách. Nhưng anh không dám đến đây một
mình... Tôi ứa nước mắt nhìn hai vợ chồng-Vâng, họ
mới là hai vợ chồng. "Tôi hiểu cả rồi. Hai người
không phải lo cho tôi. Cho thằng cu sang đây với tôi là
đủ. Có nó là tôi sống được". Thắm giặt khăn
lau mặt cho tôi. "Em thương chị lắm". Tôi lặng
lẽ. Anh Phương không nói gì, cũng chẳng dám tỏ thái độ
gì. Tôi cố bình thản che nỗi xót xa. Tôi mất anh rồi,
sự thực đã như thế từ lâu mà giờ này tôi mới bẽ
bàng nhận ra...
Tháng sau, Thắm sinh con thứ hai, lần này là con gái.
Cu Nhứt về ở với tôi, thằng bé bồng theo một con
chó con. Căn nhà tưng bừng lên vì tiếng trẻ con cười,
tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi như người sống lại. Thằng
bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào.
Tôi rất muốn thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ"
thôi. "Như thế thì cu lầm với mẹ hai. Ba bảo cu:
'Mẹ cả, mẹ hai, hai mẹ đều là mẹ cả mà!'. Tôi bật
cười. Cu Nhứt thông minh y như ba nó. Cái mắt sáng, cái
da trắng, cái chân mày nét ngang, tất cả đều là của
anh. Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó vẫn
là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà. Lại để
dành từng quả trứng. Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Đêm
nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con, tạ ơn
trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa...
Lại tháng chạp, tôi đến cô Thơi xin cho cu Nhứt cái
bùa đeo cổ để đeo đi chơi tết. Cô Thơi mới tạc pho
tượng ông hoàng đứng trên mây, vừa rước lên bàn, thắp
nhang xong thì quay ra thấy tôi. Đưa bùa cho tôi xong, cô bấm
quẻ dịch rồi bảo:
- Chiều lòng chị thì rước cho chị, chứ chị xin nhằm
giờ không vong, vật tuy có nhưng mà vô dụng!
Tôi băn khoăn về nhà. Ngày xưa, anh Phương thường trách
tôi mê xem bói. Anh không biết đó là chỗ dựa tinh thần
của những người đàn bà hay bối rối như tôi. Đến cửa,
tôi giật mình khi thấy Thắm. Cu Nhứt quấn lấy mẹ đẻ,
cười rúc rích. Thắm khẽ khàng thưa gửi:
- Trình chị, em đã cai bú cho bé, nay xin chị cho cu Nhứt
về ăn tết với em.
Tôi khựng lại, đau đớn. Một lát sau tôi đeo cái
bùa vào cổ cho cu Nhứt. "Đeo cho em kẻo đi đường
gió máy. Mà ăn tết xong mồng mấy mới cho em về?".
Thắm không nói, chỉ nhìn tôi, một cái nhìn khó hiểu.
Thằng bé đi rồi, còn lại con chó con luẩn quẩn với
tôi. Đã một năm, giờ nó đã choai choai, láng mượt. Cu
Nhứt dặn: "Mẹ cả nuôi cẩn thận cho cu". Bao
nhiêu thứ dành cho thằng bé, giờ xẻ hơn nửa cho nó.
Thui thủi vào ra, chỉ có nó và tôi.
Từng ngày, tôi chờ con trở về, càng ngày càng trông
càng ngóng. Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà bên cạnh
gọi "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau,
tưởng con về, đang làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra.
Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng người...
Rằm tháng Giêng. Con chó đột nhiên bỏ đi đâu mất.
Tôi tìm ngất ngơ quanh xóm chẳng thấy. Lòng cồn cào lại
càng nhớ, càng thương cu Nhứt. Góp được một chục trứng
gà, tôi lững thững đạp xe đi thăm con. Lâu lắm mới
đến nhà mới, tôi ngạc nhiên vì nó lạ hẳn so với
cái thời hai vợ chồng đến mua. Cây cỏ mọc xanh trong
sân, một mái hiên rộng được cơi thêm ra, thoáng mát.
Tôi từ từ bước, phân vân như đi vào ngôi nhà lạ.
Cu Nhứt đang chơi ở hiên sau. Vừa đùa với quả
bóng, thằng bé vừa hát. "Trên trời cao có muôn
ngàn ánh sao . . . Nhưng mặt trời chỉ có một mà thôi.
Và mẹ em chỉ có một trên đời...". Thấy tôi,
thằng bé reo lên, chạy ùa vào lòng tôi... Nhưng bỗng nó
khựng lại, đưa mắt nhìn vào trong, rồi cầm tay tôi,
thỏ thẻ: "Mẹ Thắm bảo con, thời này mà còn mẹ
cả mẹ hai, nghe cổ hủ lắm. Vậy con gọi bằng
gì?". Tôi ôm cái đầu nhỏ bé vào lòng, chỗ có
trái tim phập phồng đau đớn. "Thôi thì. . . Con hãy
gọi bằng bác. . . bác tệ quá, hôm qua đã làm mất con
chó Cún của con". "Ồ, không mất, bác ơi, nó đây
này!". Con cún từ sau vườn chạy tới, nhảy lon ton,
vẫy đuôi rối rít. Ôi, cả con chó cũng bỏ tôi tìm về
đây mất rồi!
Bàng hoàng, tôi đứng dậy, bước đi. Rồi bỗng quay
lui, tôi dạo một vòng sau nhà, như muốn nhìn tận mắt
cái thế giới đang hút về tất cả những gì yêu quý
nhất của một đời tôi...
Sau sân, anh Phương ngồi bên vòi nước, đang lúi húi
giặt một đống áo quần đủ loại đánh đánh chà chà
trên sân xi-măng. Chưa bao giờ thấy anh trong tư thế như
vậy nên tôi sững sờ, ngẩn cả người không sao nói một
lời. Không hiểu sao đã chịu đựng bao nhiêu điều nặng
nề, mà giờ đây tôi lại không kham nổi cái cảnh tượng
hết sức bình thường thế này? Thắm đang ngồi dỗ
con, thấy tôi vào chỉ cười, hất hàm về phía đức
ông chồng: "Làm trai, học sẩy học sàng. Đến khi vợ
đẻ thì làm mà ăn". Tôi ngẩn ngơ như người mất
hồn, lẩn thẩn nói, ngày trước ở với tôi, anh ấy chẳng
phải động tay tới việc gì. Tôi đi vắng mà trời mưa,
anh ấy cũng chỉ lôi giùm tôi cái áo trên dây phơi, chứ
cái quần cũng để mặc không hề đụng đến". Thắm
khủng khỉnh: "Em thấy chị ở cũng sạch chứ đâu
có bẩn. Mà người quân tử có sợ bẩn thì dùng khoèo
mà khoèo, rồi dùng xà-phòng mà rửa khoèo cũng được
chứ sao?". Tôi cảm thấy như có quả đấm giáng
vào giữa mặt, lảo đảo, trời đất chung quanh tối sầm.
Cố gắng về đến nhà, tôi lăn ra mà khóc, khóc thảm
thiết. Láng giềng nghe tiếng hờ trời hờ đất chạy
sang hỏi: "Ai chết thế?". Tôi không nói được
gì, không nghĩ được gì, trong tâm trí chỉ có mỗi một
hình ảnh: thần tượng của tôi, vị thánh sống của
tôi ngồi chò hỏ giặt đồ bên bể nước. Những bọt
trắng xà-phòng bay, bay tấp tới, nhận chìm tôi, tức tưởi,
mê man...
Lại một lần nữa tôi ốm nặng, tóc rụng lả tả
trên gối, nhưng không báo với ai để khỏi ai bận lòng.
Đấy là chuyện đời chồng trước của tôi...
***
Người trong xóm cứ tưởng cô Hạnh phen này chết vì
đã mấy lần cô bắt chuồn chuồn, cấm khẩu. Họ ngạc
nhiên khi thấy cô không thuốc men gì mà lại đi đứng
như thường. Cô xin về hưu non, cuốc đất làm vườn, lại
sống cái đời cần cù và đạm bạc như thuở nào.
Sáng sáng, họ lại thấy cô mua bún bò bưng vào ngược
con ngõ, những bữa trời mưa lâm thâm cô kéo chiếc nón
che tô bún, quên cả che đầu.
Rồi trước hiên nhà lại xuất hiện những cái áo
nho nhỏ mầu đỏ, mầu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi,
cô cười hiền lành: "Áo thằng cu. May cho cu mặc tết".
Nếu ai tò mò đi theo cô vào căn nhà vắng lặng, có
thể thấy ngay giữa nhà là một bàn thờ đồ sộ mà
cô gia công trang hoàng như một cung điện rực rỡ vàng
son. Giữa bàn thờ là tượng một người đàn ông đẹp
đẽ phương phi, tay cầm kiếm, chân đạp lên mấy tầng
mây. Có hỏi thì cô thì thầm: "Ông Hoàng Bảy, trấn
thủ tỉnh Thừa Thiên".
Rằm, mồng một, cô chất hương hoa đầy thánh điện
của cô, rồi ra nhà bà đồng Thơi lễ bái. Nghe đâu bà
đồng Thơi bảo rằng số cô Hạnh không theo ông Phương
được trọn đời vì người âm ưng, mà người âm này
vai vế lớn lắm, con thứ bảy của Đức Mẫu, quyền
sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay ông với cô Hạnh đã
được một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có
hay.
"Nhờ có Thánh cứu, chứ không thì mấy trận
đau, hắn đã chết trọc óc chứ mô còn tới chừ".
Bà Thơi nói. Cô Hạnh cười, vẫn cái cười dịu dàng,
không còn buồn thảm như xưa, mà phảng phất một vẻ mơ
màng - vẻ mơ màng thường thấy trên gương mặt những
người lãng trí. "Sắp tới tháng Ba rồi, phải
không chị? Tháng Ba ni chị cho em đi theo về chầu điện
Hòn Chén". Bà Thơi nghe cô Hạnh nói, hài lòng gật
đầu. "Ừ, tháng Bảy giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ. Lễ
hội tháng Ba này em cũng nên về chầu Đức Mẫu cho phải
đạo dâu con".
Đầu tháng Ba, ông Phương bỗng về thăm vợ cũ. Từ
đó, người ta thấy ông qua lại luôn. "Năm lần bảy
lượt tôi nói với mình, mình dẹp cái trò mê tín đó
đi giùm tôi. Vì cái chuyện đồng bóng lễ bái của
mình mà tôi mang tiếng nhiều lắm rồi, dù gì thì mình
cũng là vợ cũ của tôi, một hiệu trưởng, một đảng
viên...". Cô Hạnh chẳng nói gì, đang lo đặt đĩa
khoai luộc nóng hổi lên bàn thờ. Trông dáng vẻ cô ân
cần chẳng khác gì trước đây chăm chút cho ông. Cử chỉ
đó làm ông Phương thêm bực tức.
"Mình muốn trách khéo tôi phải không? Mình biết
là đâu phải tôi muốn thế, chính mình đã muốn hy sinh
cho tôi. Tôi xin mình, hãy vì tôi lần nữa...".
Cô Hạnh đã đặt xong đĩa muối chấm khoai, thủng thỉnh
ngồi xuống, nhìn ông Phương với đôi mắt rộng lượng
như thế từ trên cõi tiên nhìn xuống thế giới nhỏ
bé của loài người. "Hôm qua ông đã gặp bà Thơi
phải không? Thảo nào bà ấy bảo tôi có muốn quay về
với ông thì để bà ấy xin cho cái lễ chẻ đôi chiếc
đũa đồng tiền, ly dị với ông Hoàng...".
"Mình đừng giận tôi, thuở ấy người ta còn khắt
khe, mình cũng biết hơn ai hết. Giờ đây quan niệm về
đời tư cũng cởi mở hơn trước, thỉnh thoảng tôi lại
về thăm mình. Để mình thui thủi thế này tôi cũng chẳng
đành lòng".
Cô Hạnh nhìn ông Phương một lát rồi cười. Cái cười
mơ màng lâu nay vẫn ẩn hiện trên gương mặt cô.
"Ông à, thực ra tôi không giận ông. Nhưng chuyện
ông nói thì không thể được. Tôi đã vì ông đến nửa
đời người, nay ông yên phận rồi, hãy để cho tôi
yên phận tôi. Xưa tôi là vợ mình, chỉ biết có mình,
nay đã là vợ ông Hoàng, tôi chỉ biết có ông Hoàng.
Tôi đã nói với bà Thơi, tôi không cúng, không chẻ
đũa, bẻ tiền chi hết, tôi không bỏ ông Hoàng, vì ông
ấy đỡ đần tôi khi thập tử nhất sinh, ông ấy không
bỏ tôi, không ruồng rẫy tôi bao giờ...".
"Nhưng làm gì có cái gọi là ông Hoàng, làm gì
có cái bóng ma ấy, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của
bà thôi, bà có biết không?". Ông Phương phát thịnh
nộ, không tự chủ được nữa, đập mạnh tay xuống bàn
mà nói như quát.
Cô Hạnh đứng bật dậy, run bần bật như bị xúc phạm
nặng nề. Hai hàm răng cô đánh cầm cập vào nhau, rồi
bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước
mặt, ném vào người chồng cũ. Đến lúc ấy ông Phương
vẫn không nhận ra rằng từ khi bị cô Hạnh bắt gặp
ngồi giặt đồ bên áng nước, trong mắt cô, ông chỉ
còn là một tượng thần đã hết linh thiêng.
Người trong xóm thấy ông Phương phóng xe ra ngược
con ngõ, áo và tóc ướt từng vạt nước trà vàng vàng,
mặt bừng bừng lửa giận. Hai hôm sau, việc đến tai bà
Thu. Bà lắc đầu an ủi: "Chị ấy tốt bụng nhưng
lý trí không vững nên tâm nó loạn. Trước đã bày ra
chuyện phong kiến cổ hủ, nay lại sinh ra trò mê tín dị
đoan. Thôi thì mặc ý chị ấy, tôi cũng hết phép".
Cô Hạnh chẳng quan tâm gì đến ai, cứ vào ra trong
ngôi nhà vắng tanh với nụ cười mãn nguyện của một
người đàn bà hạnh phúc. Chiều hôm ấy cô thung dung
đi chợ chọn mua vải may chiếc áo dài mới để tháng
Ba này ngược sông Hương trẩy hội mùa xuân./.
Huế, 3-2001
Trần Thuỳ Mai |
|
|
|