- Con đi Mỹ lần này thế nào cũng phải
tìm gặp bằng được bà ấy, - mẹ tôi nói, không biết
đã là lần thứ mấy. - Tội nghiệp bà lão!
- Làm sao con gặp được? Nước Mỹ lớn
lắm, đâu như làng Vĩnh Lộc nhà mình. - Tôi đáp, có lẽ
cũng không phải lần thứ nhất. Tôi vừa thấy bực
mình lẫn buồn cười vì nói mãi mẹ tôi vẫn không chịu
hiểu điều đơn giản đó. - Bà ấy sang Mỹ sống với
con trai thì sướng chứ có gì mà mẹ phải bảo "tội
nghiệp"?
Mẹ tôi thở dài, thong thả nhổ vào chiếc
ống đồng miếng bã trầu cụ ngậm chắc đã hơn một
tiếng đồng hồ.
- Các anh hiện đại, lại sống ở thành
phố, đâu hiểu được lòng người già.
"Bà ấy" là bà cụ Mật, bảy mươi
tuổi, bạn thân của mẹ tôi từ thời con gái. Hai cụ
quen sống có nhau suốt mấy chục năm, nay phải xa nhau, mẹ
tôi nhớ cũng dễ hiểu. Tôi biết thế và cũng muốn
được gặp bà Mật để sau này kể cho mẹ tôi nghe về
bà ấy. Nhưng làm điều này đâu dễ. Trước khi về quê,
tôi được báo có tên trong đoàn nhà văn Việt Nam sắp
thăm Mỹ. Cụ thể đi đâu, làm gì thì đến bây giờ vẫn
chưa biết. Tuy nhiên, hiểu tính khí người già, tôi cũng
cầm chiếc phong bì có địa chỉ anh con bà Mật ở Mỹ
mà một lần anh ta đã gửi cho họ hàng ở làng tôi.
Tôi hứa sẽ cố tìm thăm bà bạn của cụ, nếu có thể.
Còn gói cau khô và bó trầu xanh thì cương quyết không
nhận mang hộ, vì nghĩ khả năng gặp được bà cụ
cùng làng ở tít bên ấy là rất ít, nếu không muốn
nói là điều không thể.
-2-
Chuyện bà cụ Mật đi Mỹ một thời từng
làm xôn xao làng tôi và cả mấy làng lân cận. Số là
cách đây năm năm, đùng một cái, bà cụ Mật được
anh con trai cùng cô vợ đầm da trắng, tóc vàng và đứa
con lai bốn tuổi từ Mỹ về, tuyên bố đón bà sang sống
"bên ấy" với anh ta!
Chà, người kéo đến xem cứ như hội. Mọi
người ngạc nhiên không chỉ vì thấy anh Hòa con bà,
ngày nào còn là một thanh niên làng chài rất ít khi mặc
quần áo, gầy gò và đen trùi trũi, thế mà bây giờ cứ
trắng hồng, comlê, cà vạt, lại còn để ria mép nữa.
Họ còn ngạc nhiên khi thấy "bà đầm" vợ anh nói
được tiếng Việt, thậm chí thuộc lòng cả một đoạn
Kiều. Hơn thế, "bà ấy" rất thoải mái, dễ gần,
hay cười và đặc biệt gặp ai cũng chào. Thằng con lai
thì về hôm trước, hôm sau đã thấy lúi húi chơi bi với
lũ trẻ chân trần, mũi thò lò trong xóm. Hóa ra người Mỹ
họ cũng bình dân như ta! Mà "thằng Hòa" cũng chẳng
kiểu cách ta đây như ối anh Việt Kiều khác. Trừ vẻ
ngoài, "nó" vẫn là "thằng Hòa" ngày xưa
như họ biết - chăm làm, yêu thương mẹ, chất phác và
biết kính trọng người khác.
"Đúng là nhà có phúc!"
"Sang bên ấy, tha hồ mà sướng nhé!"
Bà cụ Mật góa chồng từ ngày mới sinh
anh Hòa. Từ bấy đến nay hai mẹ con ở vậy nuôi nhau.
Như mọi người khác trong làng, bà làm ruộng, lúc rỗi
việc nhà nông, bà cùng mẹ tôi hàng ngày xuống chợ
Hôm cách làng mấy cây số ngồi bán mấy mớ trầu, buồng
cau, chục trứng hoặc vài thứ lặt vặt khác. Anh Hòa
lúc nhỏ cũng được đi học như những đứa trẻ khác.
Anh học giỏi, thi đại học hai lần nhưng không hiểu
sao đều trượt. Vì con một phải nuôi mẹ già nên thời
chiến tranh anh không bị gọi nhập ngũ, chỉ ở nhà tham
gia dân quân và ra biển đánh cá, lúc đầu còn trong hợp
tác xã ngư nghiệp, sau hợp tác tan, anh cùng mấy người
nữa sắm thuyền đi riêng. Năm 1979, lúc này đã gần ba
mươi tuổi nhưng vẫn chưa vợ, một lần anh cùng hai người
nữa lên thuyền ra biển như mọi ngày. Không may gặp
bão lớn không về kịp, thuyền anh bị sóng đánh vỡ, mỗi
người bị hất đi một nơi. Ở nhà ai cũng tin họ đã
chết. Bà Mật khóc cả tháng trời, sau đó ốm một trận,
may lắm mới khỏi. Rồi bà được một người cháu đằng
nội, nửa khôn nửa dại, không chồng đến ở chung. Cô
cháu này tuy dở người nhưng chịu khó, biết điều, nên
hai cô cháu sống cũng tàm tạm. Bà vẫn nhận làm sào rưỡi
ruộng khoán, lúc nào cũng có bầy gà và đôi lợn trong
chuồng, vẫn đều đều đi chợ Hôm cùng bà bạn thân
là mẹ tôi. Một năm sau, bà bất ngờ nhận được thư
con trai. Lại từ nước Mỹ. Hóa ra, lúc đắm thuyền,
con trai bà vớ được tấm ván, lênh đênh trên biển hai
ngày đêm, đang lúc sắp chết thì được một tàu nước
ngoài vớt lên, đưa tới hòn đảo nào đó thuộc
Malaysia, ở đấy mấy tháng, làm thủ tục và cho sang Mỹ.
Thư anh viết ngắn, hỏi hai người kia còn sống không,
cho mẹ biết anh mạnh khỏe và đang chuẩn bị vào học
một trường Đại học lớn tại Mỹ. Từ đó anh đều
đều viết thư cho bà, thỉnh thoảng có gửi cả tiền.
Cùng với thời gian, anh báo tin học xong, tìm được việc
làm, mua ô tô, nhà riêng, lấy vợ rồi có con...
Hôm nay, đúng mười hai năm kể từ ngày
gặp nạn ngoài biển, lần đầu tiên anh về quê gặp lại
bà, và như mọi người đang kháo nhau trong làng, sẽ
đưa bà sang "bên ấy" sống hẳn.
- Thế con Sáu thì sao? - Bà cụ Mật hỏi.
"Con Sáu" là tên cô cháu dở người vẫn sống với
bà cụ.
- Thì cô ấy trước ở đâu nay về đấy.
Hoặc ở lại nhà này, nếu muốn. Thỉnh thoảng con gửi
tiền giúp cô ấy.
- Còn đôi lợn và bầy gà?
Anh con cười:
- Không lẽ mẹ định đem theo sang Mỹ?
Thằng con lai đang ngồi cạnh kêu lên
thích chí, giọng lơ lớ:
- Đem đi theo! Đem đi theo!
- Còn sào rưỡi ruộng và cái ao mùng?
Đứa cháu lần nữa lại kêu lên:
- Đem đi theo! Đem đi theo!
Bà cụ Mật ngồi im. Bà ngồi im rất
lâu, vì quả chẳng biết nên nghĩ gì, làm gì. Bà mừng
vì cuối cùng lại được gặp con. Mừng cả vì người
con dâu và đứa cháu, tuy vẫn thấy họ là lạ và sờ sợ.
Bà muốn được sống cùng con, muốn biết cái nước Mỹ
ấy là gì mà người ta hay nhắc đến như vậy. Nhưng gì
thì gì, bà cũng không thể bỏ quê hương làng xóm mà
đi được. Bà đi, ai chăm sóc con Sáu mỗi lần nó lên cơn
động kinh? Ai biết rõ hơn bà tính khí đôi lợn, đàn
gà và con chó để chiều chúng, cho chúng ăn, hoặc biết
lúc nào thì nên hái mùng, những cây mùng bà biết rõ từng
gốc? Mà rồi bà sẽ sống thế nào bên ấy? Không lẽ
bà sẽ chết đâu đó và không được chôn cạnh ông Mật
chồng bà?
Bà Mật đem những điều này tâm sự với
mẹ tôi và hỏi nên làm gì.
- Thì bà bảo con và dâu bà ở lại đây,
- mẹ tôi nói. - Thế là vừa sống chung, lại vừa được
nuôi lợn, làm ruộng như bà muốn. Tôi và bà cũng được
đi chợ với nhau!
Bà cụ Mật lặng thinh, chắc nghĩ mẹ tôi
nói có lý. Đêm hôm ấy bà ướm hỏi con trai điều này,
tuy tự bà cũng biết việc đó khó có thể xảy ra.
- Trời, mẹ! Làm sao con ở lại đây được?
Vả lại có muốn, nhà nước cũng không cho.
Bà Mật không tin nhà nước không cho con
bà về sống với mẹ. Bà nghĩ con bà chỉ tìm cách
thoái thác mà thôi. Nên bà im không nói thêm gì nữa. Từ
đó, bà cứ thơ thẩn đi lại khắp nhà, lúc xuống bếp,
xuống chuồng lợn, lúc ra vườn, có lúc ra cả ngoài đồng
xa dù chẳng làm gì. Bà bước đi vật vờ như cái bóng,
đầu chít khăn nâu mỏ quạ, áo gụ sờn vai, quần đen,
da nhăn nheo và đen sẫm như màu bờ ruộng bà đang bước
lên. Trong cảnh hoàng hôn sắp tàn, bóng bà như hòa lẫn
vào đất.
Mấy hôm sau bà theo con ra đi, chỉ mang
hai bộ quần áo và chiếc cơi trầu. Cô Sáu ở lại nhà
bà, chăm sóc đàn gà, đôi lợn và sào rưỡi lúa chiêm
mới cấy. Cả làng ai cũng mừng cho mẹ con bà. Chỉ mấy
người, trong đấy có mẹ tôi, thì im không nói gì.
Đấy, câu chuyện bà cụ Mật làng tôi
đi Mỹ cách đây năm năm là thế. Và bây giờ mẹ tôi
giao cho tôi cái nhiệm vụ tìm thăm bà cụ "bên ấy",
cái bên mà tôi chưa một lần đặt chân tới và chỉ biết
loáng thoáng qua sách báo và ti-vi.
-3-
Trong một tháng ở Mỹ, may mắn tôi được
tới Chicagô, nơi bà cụ Mật đang sống cùng con trai.
Trên chiếc bì thư mẹ tôi đưa có ghi như vậy. Chicago
2180, Lakeside Drive 370-21, State of Illinois, USA. Nhưng đây
là địa chỉ cách đây hơn năm năm, khi anh Hòa gửi thư
báo ý định sẽ đưa mẹ đi cùng. Nghe nói người Mỹ
thích thay đổi chỗ ở, nên tôi chẳng dám chắc có tìm
được họ theo địa chỉ này không.
Chỉ còn mấy ngày nữa là Noel. Ở
Chicagô trời rất rét. Gió thổi mạnh không dứt từ
phía hồ Michigan. Thành phố hiện đại nhất và cũng là
trung tâm công nghiệp lớn nhất nước Mỹ này đúng hơn
là một rừng chi chít những tòa nhà chọc trời bằng
bê tông và kính. Ngồi trên tắc-xi, tôi cố mà không thể
hình dung nổi làm sao một bà cụ nông dân làng tôi có
thể sống nổi, chứ chưa nói hòa nhập được với khu
rừng đá lạnh lẽo, xám xịt này.
Tôi đang đứng trước cửa căn hộ cần
tìm. Nó nằm tít trên tầng 25 của một chung cư cao tầng.
Ở Mỹ, nội điều này đủ rõ chủ nhân nó thuộc loại
bình dân, nếu không muốn nói là nghèo. Những người
thuộc tầng lớp trung lưu thường sống ở những căn nhà
một hoặc hai tầng và xa trung tâm thành phố.
Tôi bấm chuông, đứng chờ. Không có ai
trả lời. Tôi cố tình đứng trước lỗ kính nhỏ ở
cánh cửa để người bên trong nhìn thấy, và bấm
chuông hai lần nữa. Kinh nghiệm dạy tôi phải kiên nhẫn.
Chả là cách đây mấy năm, tôi và nhà thơ Phạm Hổ lặn
lội tới tận thành phố Thessaloniki, Hy Lạp, để thăm một
người bạn từng là lính lê dương Pháp sau chạy sang
hàng ngũ Việt Minh. Chúng tôi cũng bấm chuông chờ như
thế này, nhưng mãi không thấy mở cửa nên bỏ đi. Thế
mà năm sau gặp nhau ở Hà Nội, người bạn Hy Lạp ấy
khẳng định đúng lúc chúng tôi gọi, ông ở trong nhà,
đang ngủ và khi ông, vốn đã già và chậm chạp, mặc
quần áo xong đi ra thì chẳng thấy ai. Tuy nhiên, lần
này tôi đã chờ đủ lâu để đoán chắc trong nhà
không có người. Khả năng nhầm phòng được loại ngay
từ đầu, vì trên cửa có tấm biển nhỏ bằng kim loại
ghi rõ tên ông bà Robert Nguyễn và Mary Nguyễn, tức là
Nguyễn Văn Hòa, vốn là thanh niên dân chài làng tôi.
Tôi biết rõ điều đó, vì trước đấy nhiều lần anh
có nói anh đổi tên như vậy cho hợp với bên này, và cũng
để người ta dễ gọi.
Đang lúc thất vọng định vào thang máy
đi xuống thì tôi thấy phòng bên có người mở cửa. Một
bà già da trắng dắt con chó giống bulldog màu nâu, mõm
to và ngắn đi ra. Chắc đây là giờ bà đưa chó xuống
phố đi dạo. Sau khi chào và tự giới thiệu mình, tôi
nói với bà mục đích tôi đến đây.
- Bà cụ trong nhà ấy! - bà già đáp.
- Nhưng tôi bấm chuông mãi không thấy ai
mở cửa?
- Thì bà cụ vẫn vậy. Đâu biết gì mà
nói. Vả lại có muốn mở cũng chẳng có chìa khóa...
Thấy tôi ngạc nhiên, bà hàng xóm nói tiếp:
- Thằng bé giờ này ở trường. Ông bà
Nguyễn đi làm cầm luôn chìa khóa. Một phần sợ ở
nhà cụ không biết, mở cửa cho kẻ xấu vào. Thành ra
coi như suốt ngày cụ bị nhốt trong ấy. Tội nghiệp. Tối
anh lại, chắc chắn họ có nhà.
Bà già hàng xóm là người cởi mở. Ra
phố tôi còn đi với bà một chốc. Bà cho biết anh Hòa
hiện làm việc cho một công ty điện toán, chị vợ vốn
trước học tiếng Việt và văn hóa phương Đông, nay dạy
ở trường tổng hợp Chicagô. Kinh tế gia đình bình thường
như nhiều người ở đây. Căn hộ không thuê mà mua theo
kiểu trả góp. Cả hai chiếc ô tô cũng vậy. Còn thằng
bé thì học lớp ba. Học bán trú, hết giờ làm bố mẹ
mới đón về.
- Bà cụ sống thế nào?
- Chúng tôi là láng giềng tốt, nhưng
cũng chỉ thỉnh thoảng mới sang thăm nhau vào các dịp lễ.
Bà cụ cứ ở riết một mình trong phòng riêng. Chừng
ấy năm tôi chỉ nhìn thấy cụ vài lần khi con cháu
đưa cụ ra giới thiệu. Không thấy cụ ra khỏi nhà bao
giờ. Phải nói cả hai ông bà Nguyễn và đứa cháu rất
quý cụ. Chỉ tại tính cụ thích thế.
Tôi cảm ơn bà già tốt bụng, thầm mừng
vì đã có những thông tin cần thiết về bà cụ Mật,
coi như việc mẹ tôi giao đã làm xong, nếu không quay lại
được thì cũng không còn gì phải băn khoăn.
-4-
Nhưng ngay tối hôm ấy tôi quay lại, dù
đã quá 9 giờ tối. Chỉ mấy giây sau khi bấm chuông,
chính anh Hòa ra mở cửa. Anh nhận ngay ra tôi và vồn vã
dẫn vào phòng khách, cứ chân giày bám đầy tuyết dẫm
lên thảm, theo đúng phong cách Mỹ. Chúng tôi từng là bạn
chăn trâu thời bé cho đến khi tôi đi học xa. Sau đó
hình như chúng tôi còn gặp nhau vài lần nữa trước ngày
anh "mất tích" trên biển. Anh tíu tít gọi vợ
con ra chào khách. Chúng tôi nói với nhau bằng tiếng Việt.
Anh Hòa vẫn giữ nguyên cái giọng Diễn Châu rất nặng.
Chị Mary vợ anh nói giọng miền Nam, chắc
thầy dạy trước đây người Nam Bộ. Còn thằng con thì
chẳng ra giọng vùng nào, mặc dù nó nói khá sõi.
Sau một lúc ôn lại kỷ niệm xưa, anh Hòa
nói:
- Chiều nay đi làm về, bà hàng xóm cho
biết có người từ bên nước sang tìm gặp, nghĩ mãi
không biết ai, hóa ra là anh.
- Bà cụ đâu? - Tôi hỏi khi mãi không thấy
anh nhắc gì về mẹ.
- Cụ ở đây và vẫn mạnh khỏe. Cụ
đang ngồi ở phòng mình. Có điều, gần đây chắc do tuổi
tác, cụ có vẻ bắt đầu lẩn thẩn. Hầu như chẳng nói
năng gì. Cụ cứ ở rịt trong phòng, đăm đăm nhìn đâu
đó và suy nghĩ những gì có trời mới biết. Anh vào thăm
cụ đi, kể thật nhiều chuyện quê hương vào, chắc cụ
sẽ mừng lắm.
Tôi theo anh đi sang phòng bên.
Đó là một căn phòng khá rộng, mọi thứ
đều trắng toát như phòng bệnh viện. Từ các bức tường,
trần nhà, tấm ri đô, chiếc giường đôi phủ ga phẳng
phiu cùng chiếc chăn gấp gọn ghẽ, chiếc gối bông, đến
chiếc tủ đựng quần áo và chiếc chao đèn đầu giường
- tất cả đều màu trắng. Cả chiếc ghế bành rất
sâu và lớn kê sát cửa sổ cũng trắng. Và lọt thỏm
trong đó là một bà già bé nhỏ đang đờ đẫn nhìn ra
ngoài qua tấm kính cửa sổ lớn không che ri-đô. Bên
ngoài tuyết đang rơi những bông lớn và dày, nhìn thấy
rất rõ nhờ hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh của
các tòa nhà cao tầng bên cạnh. Bà cụ không nhận thấy
chúng tôi đang bước vào.
- Mẹ ơi, có anh Lân bên nước mình sang
thăm mẹ đây này! - Anh Hòa nói to. - Anh Lân con bà Hoạt
làng ta, mẹ nhớ không? Bà Hoạt vẫn cùng mẹ đi chợ Hôm
ấy mà!
Bà cụ Mật quay sang nhìn tôi bằng cái
nhìn vô cảm, chắc vẫn chưa dứt khỏi những ý nghĩa
triền miên của mình và vẫn chưa nhận ra tôi là ai, hoặc
có nhận ra cũng chưa tin là thật.
Anh Hòa kéo chiếc ghế nhỏ lại gần cho
tôi ngồi, rồi khẽ nói:
- Cụ vẫn thế đấy, cứ như người mất
hồn. Tôi ra ngoài nhé, để anh và cụ nói chuyện tự
nhiên.
Tôi ngồi xuống ghế, nhẹ nhàng cầm
bàn tay khẳng khiu, đen xạm của bà trong hai tay mình.
- Chào bác. Cháu là con trai cả bà Hoạt
làng Vĩnh Yên ta đây. Mẹ cháu bảo đến thăm bác...
Bà cụ vẫn nhìn tôi không chớp mắt.
Bàn tay nhỏ bé của bà run run trong tay tôi. Đôi mắt rưng
rưng như muốn khóc, nhưng bà không nói gì.
- Bác vẫn khỏe chứ ạ? Mẹ cháu nhắc
bác luôn.
- Ra mẹ anh còn nhớ đến tôi à? Làng
xóm vẫn nhớ tôi à? - Cuối cùng bà cụ lên tiếng.
- Có chứ ạ. Ai cũng nhớ và mừng cho
bác được sống với con cháu sung sướng bên này. Nhưng
bây giờ quê ta cũng khá lắm rồi, không khổ như trước
nữa. Nhiều cái mới lắm.
Rồi tôi bắt đầu kể về những thay đổi
lớn trong làng, từ việc có điện lưới cách đây ba năm,
nhiều nhà có ti-vi, xe máy, đến việc huyện cho xây con
đường lớn rải nhựa hẳn hoi, ô tô chạy qua làng hệt
như ngoài thành phố, còn uỷ ban xã thì có cả máy điện
thoại. Tôi còn cho bà biết ai trong số người già trong
làng vừa chết, con nhà ai vừa hỏi vợ, gả chồng..
- Anh nói làng ta đủ ăn rồi à?
- Vâng, không còn cảnh đứt bữa như
trước nữa. Hơn thế, bây giờ nhà nào cũng ăn cơm trắng,
không phải độn khoai...
- Và ngày ba bữa?
- Đúng thế ạ.
Bà cụ ngồi im, vẻ không tin.
- Cả nhà ông Thíu? Cả cố Chuyên?
- Vâng, cả ông Thíu cũng thế. Thằng
Dũng con ông ấy còn sắm được máy cày cày thuê cho cả
làng đấy. Còn cố Chuyên thì chết năm ngoái, chín mươi
chín tuổi, nhưng làng báo lên xã một trăm, và được xã
đứng ra tổ chức chôn cất chu đáo lắm. Có cả đại
diện trên huyện mang tiền về mừng nữa. Bác biết
không. Rú Thần bây giờ được biến thành nghĩa trang của
làng ta. Mỗi dòng họ một ô riêng. Bao nhiêu mồ mả
các cụ kỵ xưa nay đều được gom về đây, cứ theo thứ
tự trên dưới mà xếp, vừa ý nghĩa lại vừa đẹp mắt.
- Con Sáu dạo này thế nào? Có hay lên cơn
nữa không?
- Cháu ở Hà Nội, thỉnh thoảng mới về
nên không rõ lắm. Nghe mẹ cháu nói thì cũng bình thường.
- Còn đôi lợn?
Tôi ngồi im vì chẳng biết nói gì.
Bà cụ lại trầm ngâm nhìn ra ngoài, nơi
những bông tuyết lớn vẫn không ngừng rơi, thong thả và
chập chạp như ý nghĩ trong đầu cụ.
- Cái Sáu đoảng lắm. Không hiểu nó có
biết tính con Cụt Đuôi thích ăn củ mùng không. Ngoài
ao nhiều mùng, không khéo nó lại bỏ tiền mua rau lang,
trong khi để mùng thối cả đống. - Bà cụ nói, với
chính mình nhiều hơn là với tôi.
Rồi cụ thong thả lấy từ dưới ghế bành
một hộp trầu và cái ống nhổ bằng đồng đem từ Việt
Nam sang. Cũng thong thả như vậy, cụ têm một miếng, có
cả vôi và cau tươi, rồi đưa lên miệng nhai.
- Mẹ cháu bảo mang cho bác ít cau trầu
quê nhà, nhưng không chắc tìm thấy nên cháu không mang
theo.
- Bên này cũng có. Thằng Hòa nó nhờ mua
đâu đó từ miền Tây. Tương cà mắm ớt không thiếu
cái gì.
Mãi đến lúc này tôi mới nhận thấy
bà cụ Mật vẫn mặc chiếc quần lụa đen, chiếc áo vải
gụ đã sờn, và đầu vẫn quấn chiếc khăn nhung cũ hệt
như ngày nào tôi gặp cụ ở làng. Nếu không có màu trắng
của các đồ vật trong căn phòng sạch sẽ, lạnh lẽo
ở tòa nhà kính gần ba chục tầng, và màu trắng của
tuyết Chicagô những ngày cuối năm này, thì khó có thể
hình dung bà cụ đang xa quê nhà hàng chục nghìn cây số,
ở một đất nước có thể là no đủ, sung sướng đấy,
nhưng vẫn buồn và xa lạ. Bất giác, tôi có cảm giác
như bà cụ vừa đi cấy về, đang tỏm tẻm nhai trầu,
trò chuyện với mẹ tôi, thì bỗng bị bàn tay vô hình
nào đó bê nguyên xi sang đây, tách khỏi màu xanh quê hương
làng xóm, khỏi những tập tục và việc làm vốn quen
thuộc từ ngàn xưa, để tới cái thành phố khổng lồ,
xám xịt và lạnh giá này. Cụ như cây mùng từ ao bùn
Việt Nam bị nhổ bật rễ đem cấy xuống cánh đồng
tuyết quê người. Và dù được giữ trong nhà kính ấm
áp, được chăm sóc tốt, cây mùng ấy vẫn ngày một
úa tàn, héo quắt. Đơn giản là do bị đặt nhầm chỗ.
- Nước Mỹ rộng và đẹp, bác có hay
đi chơi, xem đây đó không? - Tôi hỏi.
- Không. Năm năm nay tôi không bước chân
ra khỏi nhà.
Lúc lái ô tô đưa tôi về khách sạn,
tôi hỏi anh Hòa vì sao như vậy. Anh nói có lẽ do cụ sợ.
Chả là hôm mới đến, để cụ biết nước Mỹ là gì,
anh đưa cụ lên tận tầng cuối cùng của tòa nhà Sears
Tower 110 tầng, cao nhất thế giới. Cụ nhìn xuống chóng
mặt suýt ngất. Khi xuống, thang máy chạy nhanh quá, cụ
còn nôn cả ra tay áo con. Từ đấy anh rủ đi đâu, cụ
nhất định không chịu.
- Bác có nhớ nhà không? Có muốn về thăm
lại quê không? - tôi lại hỏi.
Bà cụ ngồi im hồi lâu, hai mắt lại rưng
rưng đờ đẫn nhìn những cánh tuyết xốp rơi không dứt
ngoài cửa sổ. Lần nữa bà cụ lại chìm trong thế giới
những ý nghĩ đau buồn không dứt của mình. Tôi cũng kiên
nhẫn ngồi im, không hỏi thêm câu nào nữa. Cuối cùng,
cụ chậm chạp, khó nhọc đứng dậy từ chiếc ghế bành
lớn màu trắng. Tôi định đỡ, nhưng cụ ra hiệu không
cần. Và cũng chậm chạp, khó nhọc như vậy, cụ cởi
chiếc áo gụ sờn đang mặc trên người, đút vào hai
túi hai miếng trầu đã têm sẵn, cẩn thận vuốt thẳng
từng thân áo, ống tay rồi gói vào một tờ báo. Cụ
còn lấy một sợi len đỏ gấp bốn, cột chéo vuông vức
như chiếc bánh chưng.
Xong, cụ kính cẩn đặt chiếc áo vào
tay tôi. Lần này thì cụ khóc thực sự. Hai dòng nước
mắt hiếm hoi từ từ lăn xuống và nhòe dần theo những
lớp nhăn sâu trên khuôn mặt già nua khô quắt. Tôi cũng
xúc động không kém và chỉ biết đứng im, chờ xem cụ
định làm gì.
- Anh nói hộ với mẹ anh là tôi nhớ bà
ấy lắm, nhớ bà con, làng xóm lắm. Bây giờ gặp anh đây,
tôi có thể nhắm mắt được rồi. Tôi biết tôi chẳng
còn sống bao lâu nữa, và chắc chắn sẽ phải chết ở
cái xứ lạnh lẽo, xa lạ này. Vậy nhờ anh mang cái này
về chôn cạnh mộ ông lão nhà tôi, có lẽ bây giờ đã
được đưa về Rú Thần, trong nghĩa trang họ Hoàng mới
xây như anh nói. Nếu được, bảo người ta đắp cho tôi
nấm mộ giả cho có vợ có chồng. Ông ấy đỡ cô
đơn, mà cũng đỡ tủi cho tôi...
Tuyết vẫn không ngừng rơi. Đêm đã
khuya, các đường phố Chicago vốn đã rộng càng thêm rộng.
Anh Hòa cầm lái cho xe đi thong thả vì đường trơn. Tôi
ngồi yên phía sau. Chiếc áo sờn nhẹ tênh của bà cụ
Mật đè nặng trong tay tôi, như thể tôi đang một mình
bế cụ vượt hàng vạn cây số đưa về nơi yên nghỉ
cuối cùng trên đất mẹ./.
Chicago - Hà Nội, 2/1997
Thái Bá Tân