Tôi tin rằng trong cuộc tiến hoá của nhân loại, có
một số giá trị được tạo thành cùng lúc với ý thức
sống của con người, ngay trong lòng những nhóm tộc
nguyên thuỷ sống lẻ loi chưa hề biết tới giao lưu ;
thí dụ cách lấy lửa, cách làm ra rượu thô sơ nhất,
và cả một ý niệm huyền ảo thuộc về vũ trụ gọi là
Mùa Xuân. Loài người đã biết tới lịch pháp từ những
nền văn minh xã hội, nhưng ý niệm về mùa tất đã nẩy
sinh từ những đáy thời gian sâu thẳm hơn nhiều, qua
kinh nghiệm sống của người tiền sử. Vậy thì tiếp
theo sau những tên gọi như đá, nước, lửa, trái cây,
thú rừng..., có thể "Mùa Xuân" là từ trừu tượng
đầu tiên của người hồng hoang, do một gã thi sĩ cổ
sơ nào đó đã cất lên, để reo mừng hiện tượng bừng
sống của trời đất sau những ngày dài lạnh lẽo phải
trốn trong hang đá.
Có một ngày ra khỏi mùa đông nhá nhem trên rừng,
tôi mải mê nhìn cánh rừng tràn trề nắng ấm, nghe tiếng
reo hát của dòng suối đã trong xanh trở lại, tiếng
chim ngoẵng gọi nhau "đi họ đi làng" trên những
đồi cây lá nón, và chợt nhận ra quanh tôi, những hoa dại
đầu mùa đã vẽ những nét màu sáng tươi trên mặt đất.
Đó là những ngày tiếp theo sau cái Tết kháng chiến đầu
tiên của tôi ở rừng Khe Trái, và cũng là lần đầu tiên
trong đời, tôi ghi vào sổ tay lòng biết ơn chất phát
đối với nhà thông thái bàn cổ nào đấy đã nghĩ ra
cho nhân loại hậu thế cái tên gọi tuyệt vời này,
"Mùa Xuân".
Từ thời còn trẻ, tôi đã nhiễm chứng ưu du của
người Huế, lơ đãng nhìn tháng ngàỵ Quả thực tôi
không mấy quan tâm đến cuốn lịch nhật dụng, mà trước
kia vẫn mang dấu kiềm ấn Toà Khâm Thiên Giám. Tôi chỉ
say mềm dõi theo cuộc biến ảo của Xuân Hạ Thu Đông,
qua bộ lịch vĩnh hằng của Tự Nhiên viết trên cây cỏ.
Ở Huế, nhiều khi người ta không biết có Xuân về nếu
không có cây mai vàng. Trong màu xám vô ngôn của mùa đông
còn kéo dài quá mãi sau tiết Vu Thuỷ, sắc vàng của hoa
mai đột hiện trong những khu vườn lộng lẫy như màu
áo hoàng hậu. Những tuần cuối đông, cây mai Huế vẫn
phong kín sắc vàng trong nụ hoa, để bừng nở trong dịp
Tết, hoa phủ kín toàn thân. Thơ xưa nói là "toàn thụ
khai thành nhất đoá hoa". Vườn Huế nào dù nghèo, vẫn
dành chỗ cho vài ba cây mai, giống như di sản truyền cho
nhiều đời, mai già thành cổ thụ, cành sậy tán lớn,
toả sáng cả một vùng chung quanh. Sáng mồng một Tết mở
cửa nhìn ra thấy chúa Xuân đã tới bên thềm. Vì thế,
dù là cây vườn mai vẫn tạo một gam màu hoành tráng của
không gian lớn, như màu áo xuân nữ trời đất ban cho cố
đô.
Tuần hoa của mai khá dài, nụ mới tiếp tục nẩy
thêm, nụ già nở hoa trên cành, và những cánh hoa đã nở
xong rơi xuống thành những đám vàng tươi trên mặt cỏ
khác nào "bóng hoa" và đó là vẻ đẹp lần thứ
hai của hoa mai. Nhìn nó, tôi không hề nhận ra chút tủi
thân thường có ở những bông hoa đẹp tàn héo, chẳng
hạn ở hoa trà mi hoặc hoa phù dung. Cánh mai rụng vẫn tươi
nguyên dưới mưa phùn, trẻ trung khiến ưa nhìn, có lẽ
tôi đang chứng kiến khoảnh khắc hoá thân nhẹ nhàng của
hoa mai để luân hồi vào một mùa xuân khác.
Qua tiết nguyên tiêu, trong không gian tĩnh yên của những
vườn Huế, sẽ hiện ra một nét bút kỳ tuyệt của
thiên nhiên trên lụa, ấy là vẻ đẹp của hoa mai dưới
màu trăng nguyệt bạch.
Sau chiến tranh, tôi có một đêm xuân về thăm khu vườn
cũ của bạn ở xóm Chỉ. Ngô Kha đã hy sinh, hai cụ
thân sinh đã qua đời, cả ngôi vườn tổ phụ này để
lại cho một người chị trông nom. Sau này, tôi rất sợ
những khu vườn cũ ở Huế: cỏ cây vẫn y nguyên, nhưng
người đã bỏ đi đâu hết, mỗi người trôi giạt theo
một số phận, một phương trời, mình tôi quay lại.
Tôi ngồi yên lặng trước thềm, nhìn ra trăng sáng đầy
vườn. Ngày ấy, tôi và Kha thỉnh thoảng về đây giữa
mùa trăng, ngồi dưới hiên tối với những thiếu nữ
ríu rít, có một ai để lại trên vai tôi ít nhiều hương
tóc rồi đi, trong tuổi trẻ đầy biến động của chúng
tôi. Tôi trở về ngồi một mình dưới mái hiên xông đầy
hương bông lài bông lý, nhớ lại câu thơ Ngô Duyên -
"Này tôi đã khóc này em mỉm cười"... Bóng cây
khẽ động bên thềm, tôi nhìn lên và gặp cây mai năm
xưa đang nở hoa. Lá non đã lưa thưa trên cành, và dưới
ánh trăng lạnh, hoa mai bớt độ vàng của ban ngày để
ngả sang màu hoàng yến, giọt sương lấp lánh rung nhẹ
trên những nhánh gầy. Hoa đẹp có nhiều trên đời, mỗi
hoa một vẻ không dễ so sánh, nhưng quả tôi chưa hề gặp
một sắc đẹp nào giống như hoa mai lúc này; có cả
nét đam mê của hoa hồng, nét lẳng lơ của hoa hải đường,
nhưng toàn phong vận vẫn toả sáng vẻ thanh thoát cao
sang của hoa lệ. Quả là giai nhân dưới ánh trăng. Khi
người xuất hiện, tất cả đào liễu đều nghiêng
mình. Nhìn thì vẫn là cây mai, nhưng thoảng qua, tôi cứ
thấy thấp thoáng một bóng người. Có lẽ hoa mai có một
linh hồn. Có lẽ những Lan, những Hạnh, những Duyên của
một thời thơ mộng mơ này đã xa tận Đào Nguyên, đêm
nay lại về trong bóng Mai. Để tháng sau nếu tôi lại,
tiên nữ đã bay về trời, chỉ còn con nhện thi sĩ lặng
lẽ giăng lưới hứng những giọt vàng rơi cuối cùng
trong nỗi si mê muốn kéo giữ mùa xuân ở lại.
Cùng thời với hoa mai nhưng thầm lặng không ai biết,
là mùa hoa sầu đông. Người Huế gọi tên cây như thế
là đúng, vì không có loài cây nào trơ trụi trong những
tháng đông dài như nó, nhìn cứ tưởng nó đã chết
khô. Thoắt cái xuân về, trái tim vui trở lại, cây sầu
đông nẩy ra mấy chòm lá non hối hả để nở hoa, hoa
nhiều và nghi ngút, xa nhìn như những đám khói trên
cây. Lần ấy tôi đến thăm anh Lưu Trọng Lư ở sau chùa
Linh Quang, mùi hương sầu đông bay đầy ngõ. Tôi có ý
tìm, mãi tới cuối ngõ trước cổng nhà nới thấy một
cây đang nở hoa. Hôm sau tôi ra phố Nguyễn Huệ, những
cây sầu đông xoà những chùm hoa xuống gần sát đầu tôi,
nhưng cố lắng nghe, tôi vẫn không bắt gặp một thoáng
hương thơm nào hết. Tôi thầm nghĩ, hình như hoa sầu đông
chỉ thơm ở những ngõ vắng. Trong lòng mỗi bông sầu
đông trắng nhỏ xíu có mang một vết tím huyền, khiến
nhìn gần những chùm hoa trở thành màu xám, vết tím ấy
giống như chút kỷ niệm ẩn giấu trong một ký ức đã
mơ hồ. Lang thang một mình trên đường vắng tôi thường
bắt gặp một mùi hương sầu đông rất sâu, chạm thấu
từng tế bào của trí nhớ và đánh thức trong tôi nhiều
điều như đã quên trong đời. Ôi, những kỷ niệm của
tôi, sao lại thơm mùi hương sầu đông, lạ thật !
Năm nào cũng thế, trời lạnh dài suốt tháng Chạp vắt
qua Giêng, lạnh buốt xương và sau đó, tất cả cây
trong thành phố nối tiếp nhau rụng lá. Huế mùa lá
trút hiện ra một gương mặt riêng, đầy những biến động
bất ngờ trên cây cối.
Dáng thay lá đẹp nhất là cây bàng. Bàng bắt đầu chuyển
màu vào cuối đông, và với từng chiếc lá, từ màu lục
già sang màu vàng, dừng lại vài ba hôm trên màu đỏ
trước khi rụng. Vào giữa cuộc chuyển mình, cây bàng
chơi màu rất đẹp, cùng lúc xen lẫn lục vàng và đỏ
nồng nhiệt chất sơn dầu trong gam màu của Van Gogh, đến
nỗi nhiều lúc tôi sửng sốt nhìn nó, tưởng đấy là
một cây bàng vẽ bởi chính Van Gogh. Trước sau rồi cây
bàng cũng tới kỳ lá đỏ, đỏ lộng lẫy không sót lại
chiếc lá xanh nào cả. Trong không gian rộng, những cây
bàng cổ thụ cao ngất nổi bật trên nền trời với những
tầng lá đỏ rực và ướt đẫm, như thể lúc này, họ
nhà bàng đang phơi ra giữa đời ngàn vạn lá gan còn tươi
máụ Và rồi thực bất ngờ trong một hành động rũ sạch
dĩ vãng quyết liệt, cây bàng rụng tận ngọn lá cuối
cùng, giăng bày bên sông một giấc mơ giang phong ngư hoả
trong màu sương nào xa lơ lắc... Cánh bàng trụi lá
trông giống những bàn tay gầy guộc khô khốc, đầu bàn
tay hơi cong lên trong cử chỉ ngửa in một chút gì của
thời gian. Người Mẹ Tạo Vật hào hiệp không để nó
phải chờ lâu; chỉ vài hôm lộc non đã tràn đầy trên
bàn tay mùa đông của cây bàng. Dáng mọc của lộc rất
lạ, thẳng đứng trên cành, như thể là đêm qua có ai
đã thả ngàn vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời, xanh
biếc chi chít đầy cành và xoay thành những tán tròn
quanh thân câỵ Lá non lớn nhanh, đứng thẳng và cao chừng
gang tay, cuộn tròn rất giống những chiếc tai thỏ, giống
đến nỗi khiến tôi bật cười nghĩ rằng cây bàng nghịch
ngợm đang diễn cho xem tài nhại tai thỏ của nó, như trò
chơi của trẻ con bằng bóng bàn tay in lên vách. Vẫn chưa
hết chuyện lạ: khi những tai thỏ xoè ra thành vài ba
chiếc lá nhỏ, cây bàng nẩy thêm một lứa lộc lần thứ
hai màu đỏ đọt mưng giữa những chùm lá; tán bàng
bây giờ là một màu áo lục non lỗ đỗ những vết hoa
hồng thẫm. Chỉ trong vòng mười hôm từ khi nẩy lộc,
nhìn lại thấy lá đã già trên thân cây đầy những hốc
bướu cổ quái, tưởng như cây bàng vẫn y nhiên như thế
từ trăm năm. Ai ngờ trên thân thể đại lão của nó
là một linh hồn rất trẻ, bởi không một chiếc lá
nào của năm ngoái còn lại trên câỵ
Hết tiết mưa, trời sáng và ấm dần, khởi đầu mùa sương
mù trên sông Hương. Có một chút nắng để nhìn thấy
dòng sông trôi nhẹ trong màn sương lam mơ màng, nửa như
khói, nửa như hơi rượu. Vào buổi chiều khói sông mờ
mịt tưởng chừng có thể làm cay mắt người. Ngày
quang đãng vào lúc này núi hiện ra rất gần, thấy từng
nét cong, từng lớp mạnh mẽ của cấu trúc, và cả những
mảng màu khác nhau của đá và cây. Bây giờ núi non biến
mất trong khói xanh, chỉ còn thoáng một nét nhạt mỏng
manh ở đầu sông. Ngồi thuyền nhìn lên, chỉ thấy hai
vệt cây dài ven sông nhạt nhoà trong một cõi sương mờ
ảo xa thẳm, tuồng như sông Hương đang trôi đi giữa rừng.
Có ai nghĩ rằng đằng sau vệt cây kia là một kinh thành
với đền đài, cung điện và ngai vàng... Thảo nào những
thi nhân Huế xưa thường nói rằng cuộc đời là một
giấc mộng dài. Lần ấy tôi chơi thuyền với Bằng Việt
và ông bạn đồng nghiệp Evguénie Sidorov, Viện phó Viện
Văn học Gorki. Sương mù đầy khoang thuyền, len vào giữa
câu chuyện của chúng tôi, như thể là chúng tôi đang
chuyện trò ở thế kỷ trước. Bằng Việt vẫn thế, nét
mặt nghiêm chỉnh và ngơ ngác sau kính trắng, thông báo
một điều mà tôi tưởng là nói đùa:
- Tôi cũng là người Huế. Tôi sinh ra ở thành phố này.
Sidorov gật đầu:
- Không ai có thể chọn nơi mình sinh ra. Nhưng tao mừng
cho mày đã sinh ra ở một thành phố đẹp đến thế. Về
Mạc Tư Khoa, suốt đời tao không quên nổi dòng sông
này, màu sương này...
Và tôi cũng thế, không bao giờ tôi quên được là giữa
ba chúng tôi đã có một buổi chiều ngồi với nhau chỉ
để đàm đạo về sương khói…
Tôi ít quan tâm đến cây xà cừ, dù bao ngày nắng hè
tôi đã ngồi nghỉ dưới bóng mát của nó. Cây xà cừ
lực lưỡng rắn rỏi, có vẻ không thiết gì đến những
hoa trái của chính nó, bình thản đứng bên đường
trong một vẻ trung niên bền bỉ, không hồi hộp, không
chờ đợi. Nó lầm lỳ không để ý tới ai, nên cũng không
khiến ai chú ý tới nó. Thế mà có một mùa xuân, cây
xà cừ đã gây một biến cố chấn động tâm hồn tôi,
có lẽ còn muốn bảo cho tôi biết thế nào là lễ độ
đối với nó. Tôi nhớ rõ năm ấy vào khoảng tháng Ba.
Huế có vài ngày trời dịu êm rồi chuyển sang một cơn
gió bấc lạnh khô, lạnh thấm thía cả xương thịt, chắc
là rét nàng Bân. Đột nhiên những cây xà cừ trong
thành phố ngả vàng trong một đêm, vàng từng mảng
trên cây, và trong chừng ba hôm, toàn cây xà cừ đã
vàng hết lá. Phố tôi ở trồng xà cừ, đầu ngã tư có
một cây cao lớn nhất thành phố, có lẽ thuộc thế hệ
thứ hai sau những bậc tiền bối thuộc họ bàng, sứ, bồ
đề, v. v..., đã vàng tận ngọn như vậy. Cái bóng đồ
sộ của nó vượt cao quá những tầng nhà, đi từ xa tôi
đã thấy một tán vàng chói lọi, át cả màu lục non của
lá mùa xuân chung quanh, trông tráng lệ, kỳ lạ, và phải
nói là đẹp vô cùng. Trong nắng nhạt, nó chói lên bằng
ánh sáng kim loại đúng là vàng y, như tôi có thể hái
để gửi vào ngân hàng vậy. Nghe nói trong cung Huế ngày
xưa có cành vàng lá ngọc, nhìn y như thật. Tôi cười
khan theo giọng Trang Tử, rằng nếu định bắt chước
thiên nhiên thì phải mấy triệu năm mới làm ra nổi
cây xà cừ này của tôi, món quà tặng muôn vàn mà trời
đất đã nhẹ nhàng trao cho tôi chỉ sau một giấc ngủ
đêm xuân.
Suốt mùa xuân Huế, hàng ngày tôi vẫn gặp ngoài đường
những chị công nhân im lặng đấy những xe ba gác chở
đầy lá mang đủ họ cây trong thành phố. Không biết
các chị sẽ mang đi đâu, bấy nhiêu lá rụng ?
Sau mùa lá non, khi màu mai vàng chủ mệnh của mùa
Xuân vừa trở thành kỷ niệm cũ, cây cối dường như
đã hết vốn về màu sắc, thì rất đúng lúc, cây vông
nở hoa. Vông vốn là cây hoang dã, hình dáng thô kệch,
người ta chỉ trồng ở nơi khuất nẻo, ven sông hoặc
phía sau những toà nhà. Tôi tin rằng cây vông đã được
trồng hẳn hoi, bởi những nhà quy hoạch thuở ấy dựng
kinh thành Huế. Chính họ mới biết tới cái đẹp bất
ngờ của hoa vông. Người Pháp vốn rất nhạy cảm với
Huế nên vẫn giữ nguyên loại cây này, ngay cả cây
vông đồ sộ cạnh toà nhà bưu điện thành phố. Đúng,
nếu không có mùa hoa vông, như một dấu dièse của màu
sắc, bản nhạc xuân của Huế e chừng sẽ quá dài trong
một cung Mi-thứ êm dịu nhưng quả là buồn; dù sao đấy
cũng là mùa của mặt trời đi ngủ sớm, và của những
con chim bay đi tìm nắng ấm chưa trở về.
Người Huế xưa đã trồng cây vông bằng tấm lòng chắt
chiu đối với niềm vui của một thành phố vốn rất dễ
buồn. Hoa vông nở dày đặc kín cả cành; những lớp
cánh hình sau đỏ rực tung toé giống hình ngọn lửa, đúng
là loài cây nở ra lửa, rất trùng khít với ý niệm
"mộc sinh hoả" nhìn thấy bằng mắt. Cây cao
bóng cả, màu đỏ hoa vông vượt lên giữa thinh không ,
dưới nó là cái nền đen xám của những mái nhà. Màu
hoa đỏ thắm, trong như ngọc và toả ra ánh sáng; sách
địa lý nhà Nguyễn nói rằng "ánh hoa chiếu vào vật
khác đều đỏ thẫm". Chắc có một lần công chúa
Huyền Trân đã đứng ngắm bông hoa thắm này bên sông
Châu Hoá, hoa và mặt người đã soi hồng cho nhau, giống
như hoa đào trong câu thơ Thôi Hộ. Và từ đó, màu hoa
thắm thiết tới muôn đời. Mùa hoa vông chỉ dài chừng
một tháng như là bóng hồng ghé qua sau tiết Thanh Minh,
để bàn giao mùa màng cho hoa phượng.
Một buổi sáng, tôi tình cờ dậy sớm, ngồi nhìn sao
mai qua cửa sổ phòng viết sau nhà. Trên mái đen thẫm của
dãy nhà bên kia chợt ló ra một vệt sáng chạy dài theo
đường nóc, vệt sáng mỏng như một đường viền
đăng ten có màu tím, rất tím, đúng màu tín than. Vệt
sáng rộng dần, tươi lên thành màu hồng. Trong khoảnh
khắc, nó chuyển sang màu ngọc bạch, như màu da trái đào
non, trên đó hiện bóng vài con chim én bay liệng. Tôi vừa
cúi xuống ghi chép vài dòng về cảnh tượng trước mắt,
ngẩng lên đã thấy mảng trời màu trắng ngọc kia biến
thành những vệt sáng rộng lớn hình rẻ quạt màu hồng,
sẫm dần thành màu đỏ thắm trên một nền da trời
xanh lơ. Và cũng chỉ trong chốc lát, những nan quạt tan
biến, nền trời hửng lên một màu trắng rộng thênh
thang, trắng hẳn như là sữa pha, để dịu dần xuống
trong màu xanh dịu dàng của nền trời phía sau. Trên màu
trắng ổn định ấy của buổi sớm mai nhô cao lên phía
bên kia mái nhà, tôi chợt nhìn thấy mấy chùm đỏ của
hoa phượng đầu mùa…
Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một bình minh huyền
ảo đến như vậỵ Tâm hồn tôi thốt nhiên tràn đầy
một nỗi xúc động vừa sâu thẳm vừa rộng lớn, vượt
khỏi bản thân tôi để đưa tôi hoà nhập vào cuộc chơi
linh diệu của ánh sáng.
Tôi biết là mùa hạ đã đến./.
Hoàng Phủ Ngọc Tường