Tôi lơ đãng nhìn ra vòm phượng hồng
trước cửa lớp, thầm than thân trách phận.
Lũ chúng tôi - những kẻ khốn khổ của
thế kỷ 20 - phải ngồi lỳ ở đây
6 tiết mỗi tuần lễ để nghe giảng
về mấy bài thơ văn. Hẩm hiu thế nào
tôi rơi đúng vào lớp chuyên văn, một lớp
đặc biệt đến nỗi tất tần
tật 28 thành viên của lớp đều là phái
yếu. Điều kém may mắn nhất cho thầy
chủ nhiệm chính ở chỗ chúng tôi nghịch
như quỷ sứ. Tôi không rành về tử vi,
nhưng dám chắc rằng nếu trên đời có
ngôi sao nào nặng hơn "sao quả tạ"
thì đó hẳn là sao chiếu mệnh thầy. Vận
hạn bắt đầu đến với thầy
vào hôm nhận lớp. Hương còi hất hàm về
phía bộ quần áo xanh bộ đội thầy
mang trên người, thì thào. Lời thì thào nhanh
chóng truyền từ bàn này sang bàn khác. Thầy cau
mày "Cả lớp trật tự". Năm phút
im lặng. Tôi cúi xuống chân bàn, ném cho Hương
còi mẩu giấy cuộn tròn to bằng viên bi ve:
"Điều tra xem thầy có vợ chưa mà
khó tính thế!".Đại hạn thực sự
đổ ập xuống đầu thầy khi chúng
tôi khám phá ra thầy thuộc "binh chủng
phòng không". Ban đầu chúng tôi ghán ghép thầy
với một cô giáo cũng độc thân trong trường
khiến thầy lúng ta lúng túng. Một hôm, trên mục
"Tìm bạn trăm năm" của tờ báo
địa phương xuất hiện tên thầy
với đầy đủ chỉ số về ngoại
hình, tính tình và sở thích. Nhìn thầy bực dọc
liệng tờ báo xuống bàn, cả lớp im
thít, lấm lét liếc nhau nhưng trong lòng đứa
nào đứa nấy đều khoái trá vì trò
đùa đã phát huy tác dụng. Dần dần lớp
chia thành hai phe. Phe tôi không ưa thầy nên nghĩ
ra đủ trò để trêu chọc. Phải thừa
nhận thầy rất nguyên tắc. Có thể do thầy
được rèn luyện trong quân đội,
nhưng còn chúng tôi, chúng tôi có phải là lính
đâu? Vả chăng bây giờ đâu phải thời
chiến để áp dụng "kỷ luật sắt"!
Chiến tranh đã đi qua gần 20 năm, thiên hạ
nhà lầu xe hơi lướt ầm ào ngoài phố,
vậy mà thầy vẫn hai bộ quần áo lính
thay đổi, nơi ăn chốn ở là căn
phòng ẩm thấp chưa đầy 12m2, đồ
đạc có giá trị nhất là chiếc radio cũ
mèm từ thập kỷ 50 và giá sách cũ kỹ với
nhiều cuốn ố vàng. Thầy rất nhiệt
tình với nghề, song trừng phạt một
cách không mảy may thương xót mỗi khi chúng
tôi mắc lỗi. Chúng tôi liên tục vi phạm
nguyên tắc thầy đặt ra, liên tục bị
chỉnh đốn và bản kiểm điểm liên
tục đến tay thầy. Biểu tượng
cho quãng đời trong trường học của
tôi là những trò nghịch ngợm chẳng giống
ai, những giọt nước mắt rơi lã chã
khi nghe thầy "tuyên án". Nhưng thầy tỉnh
bơ, tuồng như chiến tranh đã làm cho người
lính quá quen với nước mắt. Người
ta bảo rằng con người dễ trở thành
vô cảm khi vượt qua ngưỡng cảm giác.
- Hoài, em vẫn nghe thầy giảng đấy chứ?
Tôi giật mình, bật lên câu trả lời theo
quán tính.
- Dạ có.
- Đề nghị em nhắc lại điều
tôi vừa giảng.
Cảm giác lúng túng xẹp nhanh, tôi bắt đầu
bực tức. Tại sao thầy luôn hỏi vào
lúc tôi không chú ý, cứ như trù úm tôi không bằng.
Lòng căm ghét thầy phút chốc phình to như quả
bóng. Tôi đứng ì, mặt xị ra. Thầy
nghiêm khắc ra lệnh:
- Chốc nữa em xuống phòng giáo viên gặp
tôi.
Tan học. Tôi uể oải bước vào phòng
giáo viên. Tôi đã muốn mặc kệ tất cả
ra sao thì sao, tôi thực sự chán ngấy nhịp
điệu cuộc sống này. Suốt ngày chỉ
học, học và học. Học ở trường,
ở nhà. Học cả ngày, cả đêm. Bố mẹ
bắt buộc tôi phải đạt học sinh giỏi,
cho nên tôi trầy trật bò lên cái danh hiệu vượt
quá khả năng của bản thân. Bố mẹ
nghiêm đến nỗi chỉ một học kỳ
tụt xuống học lực khá, có lẽ tôi chẳng
dám bước chân về nhà.
Đợi chừng hai phút, người trừng
phạt có bộ quần áo lính bước vào.
Tôi có tội tình gì cơ chứ? Tôi ao ước
mình thăng thiên hay độn thổ đều
được tất, miễn sao đừng phải
nghe thầy giáo huấn. Nhưng bài răn đe
đã bắt đầu:
- Em học hành tương đối chểnh mảng.
Theo đà này, e rằng cuối năm em chỉ xếp
loại trung bình.
Tôi im lặng.
- Kỳ này em đã viết một bản kiểm
điểm. Nếu không có ý thức rèn luyện,
em sẽ xếp loại hạnh kiểm khá.
Tôi bật dậy:
- Thưa thầy, không thể như vậy
được!
Quả thật trái đất nổ tung tôi cũng
không sợ hãi bằng ba chữ "hạnh kiểm
khá". Chắc chắn cha sẽ không tha thứ.
Vài ngọn roi là ít. Cả một tuần trời
ngồi thu lu trên bàn học. Thay vì được
xem tivi một giờ mỗi tối, tôi sẽ phải
nghe cha răn dạy nửa tiếng trước khi
ngồi vào bàn, rằng đời cha mẹ thiệt
thòi khổ sở, con may mắn được sung
sướng thì phải thế này, thế nọ.
Ông còn doạ không học hành tử tế thì suốt
đời phải về quê chăn bò chăn trâu.
Đầu óc tôi nổ tung về các bài học và
lời giáo huấn, nên tôi nghĩ thà về quê chăn
trâu còn sung sướng hơn đi học. Bọn
trẻ cưỡi trâu thật tự do, cả ngày
tung tăng trên cánh đồng bát ngát, tha hồ thả
diều thổi sáo, ngắm đất trời. Bọn
chúng mới thực sự tự do, còn tôi, tôi chẳng
khác chi người tù, nhất cử nhất động
đều phải tuân theo quy định và bị
giám sát ngặt nghèo. Có ai khổ hơn tôi không hỡi
trời?! Không phải tôi không nhận thấy cha mẹ
và thầy có lý, song lẽ thường khi bị mắng
nhiếc nhiều quá, đánh nhiều quá và bị
o ép phải làm những điều quá sức thì
hiệu lực của sự giáo dục chẳng thấm
vaò tôi mấy tí, bởi vì nó làm đầu óc
tôi lộn tinh lộn phèo, do vậy tôi chẳng nhớ
gì ráo.
Chắc hẳn điệu bộ của tôi chẳng
gợi được chút thương cảm nào,
nên giọng thầy vẫn lạnh như họng súng:
- Nếu không muốn như vậy em cần chấn
chỉnh, rèn luyện lại tác phong học tập
và đạo đức ngay lập tức.
- Thưa thầy, thầy biết đấy, học
văn cần cảm hứng. Nhưng mấy bài văn
kháng chiến chẳng gợi cho em cảm xúc gì.
Các môn khác của em điểm vẫn cao...
Thầy nhìn tôi, nửa như muốn ném tôi ra
ngoài cửa sổ, nửa như thất vọng:
- Sao, cả một thời kỳ lịch sử,
mất mát đau thương như thế mà không
đọng lại trong em ấn tượng gì? Các
em không biết chiến tranh khắc nghiệt ra sao
nên coi thường nó. Lý tưởng sống của
các em là gì? Nó khác chúng tôi ngày xưa nhiều quá.
Bước ra khỏi phòng, tôi xì một tiếng
rõ dài. Người lớn lúc nào cũng ngày xưa,
ngày xưa, chấn chỉnh với rèn luyện.
Tôi đã 15, 17 chứ đâu phải trẻ lên ba.
Tôi chán ngấy cảnh mọi người xem tôi
như đứa bé, muốn sai bảo hay la mắng
như thế nào cũng được, chán ngấy
sự áp đặt và kỳ vọng phi lý họ
nhồi nhét, nhồi nhét mà chẳng mảy may quan
tâm đến tâm tư và nguyện vọng của
tôi.
Hôm sau, chúng nó vây chặt lấy tôi thẩm vấn:
- Thế nào, "Hiệp sĩ Đông Ky Sốt"
mới tuyên bố sắc lệnh gì mà trông mày
ỉu xìu thế?
- Nguy cơ hạnh kiểm khá.
- Hơi gay go đấy - Thảo "ba toác"
chép miệng - Bố mẹ mày sẽ cho mày nhừ
đòn. Mày khổ thật. Còn bố mẹ tao rất
hiền.
- Chưa hết đâu. Ông ấy còn lý luận
tràng giang đại hải về chiến tranh. Tao
ghét cái giọng điệu "ngày xưa". Bây
giờ là bây giờ, nhắc đến ngày xưa
làm gì. Làm như chúng mình là một lũ ngựa
bất kham. Rõ ghét!
Mỹ kéo dài giọng:
- Ôi dào, chúng mày lạ gì tính dở hơi cà tẩm
của thầy. Chả trách không được lấy
vợ.
- Không có vợ mới khó tính - Hà "cạo"
đế thêm - Hôm nọ tao quên chưa kịp dán
nhãn vở, thế là bị cho ngay một bài học
về tính đại khái.
- Nói gì thì nói, tuy tác oai tác quái, nhưng ông
ấy cũng tốt với học sinh. Tận tình,
chu đáo và không thiên vị.
Cuộc bình luận lẽ ra còn sôi nổi nếu
Thuý không kêu ré lên:
- Ôi chúng mày ơi! Tao không trực nhật nữa
đâu. Tao sợ lắm.
Cả bọn chạy bổ vào lớp. Thuý chỉ
xuống góc phòng, run bần bật:
- Đến đấy mà xem.
Trước mắt chúng tôi là ba con chuột
đỏ hỏn chưa kịp mở mắt. Một
tờ giấy nguệch ngoạc: "Tặng dân
"chuyên ăn". Thịt chuột làm gỏi
ngon miễn chê".
Tôi hét to:
- Trò khỉ của bọn chuyên toán.
Phải cho chúng biết tay. Cuộc chiến nổ
ra. "Binh đoàn" chuyên văn nối gót nhau
chạy rầm rập xuống tầng một. Tôi
cầm xô nước đổ tung toé lên mười
hai dãy bàn, nước bắn cả vào mấy thằng
đầu to mắt cận ướt sũng.
Đoạn Hương còi - Con bé bạo gan nhất
lớp - đặt ba con chuột lên mặt bàn
giáo viên. "Cảnh cáo nhẹ các cậu về tội
hỗn xược. Đừng tưởng bọn
tớ sợ". Hăng tiết vịt, chẳng
đứa nào chú ý đến hiệu lệnh vào
lớp. Tới khi thấy bóng thầy chủ nhiệm
lớp toán nơi ngưỡng cửa, binh đoàn
chuyên văn mới hoảng hồn chạy toán loạn.
Sau vụ ẩu đả đầy kịch tính
này, kho lưu trữ kiểm điểm cảu thầy
có thêm một bản mang tên Lê Hoài, dĩ nhiên kèm
chữ ký phụ huynh. Thầy không thèm đếm
xỉa đến lời giải thích của tôi rằng
bọn chuyên toán gây chiến trước, đẩy
chúng tôi vào tình thế buộc lòng phải tự
vệ. Thực lòng, tôi không sám hối, bởi
điểm này, hiển nhiên tôi lĩnh hạnh kiểm
khá. Biết trước tương lai tối
tăm ấy, tôi đến xin thầy "gia
ân".
Qua đoạn cầu thang gỗ ọp ẹp không
một ánh sáng giữa ngày hè, trước mặt
tôi là cánh cửa gỗ tróc lở. Tôi giơ tay
định gõ cánh cửa khép hờ, chợt nghe
có giọng phụ nữ chì chiết:
- Tôi với anh tuy không tiếp tục chung sống,
nhưng chưa làm thủ tục ly dị hợp
pháp, không ngờ anh còn đăng báo tìm bạn trăm
năm. Anh nghĩ kỹ chưa?
Tim đập thình thịch chẳng khác kẻ
đào tường khoét vách lúc nửa đêm, tôi
ghé mắt nhìn. Một người phụ nữ trạc
35, 37 ngồi bắt chéo chân trên chiếc giường
cũ kỹ, ném toạc tờ báo tai ác xuống trước
mắt thầy. Đôi mắt ướt sắc lẻm
vẽ một nét mai mỉa đậm đặc
quanh thân hình khắc khổ đang cúi gục. Bộ
dạng thầy lúc ấy hẳn gây ấn tượng
với tôi lắm lắm, vì tôi cứ ngó trân
trân, quên mất mình đang nghe lén. Lòng ngạc
nhiên hay hoảng sợ, tôi chẳng thể phân
định nổi. Tôi đứng ngây ra vài giây
thì bị bà già hàng xóm kéo tay:
- Trông cô, tôi đoán cô là học sinh của thầy
Hải phải không? Cô đến có việc gì,
hãy vào nhà tôi một lúc chờ họ nói chuyện
xong chứ bây giờ cô chú ấy đang gay gắt
lắm.
Tôi máy móc vâng lời. Sau một phút định
thần tôi hỏi bà lão:
- Vợ thầy đấy hả bà? Sao lâu nay
chúng cháu thấy thầy sống một mình?
Bà hạ giọng:
- Phải, cơ mà cô ấy bỏ đi một
thời gian rồi. Chả hiểu sao hôm nay quay về.
Chắc nghe tin chú Hải đăng báo tìm vợ,
cô ấy đòi chia nhà chia cửa.
Bên kia, tiếng người vợ gay gắt
hơn:
- Sao im như thóc thế? Anh thù ghét tôi, khinh khi
tôi, không thèm nói chuyện với tôi ư? Sao anh không
tự hỏi bản thân anh đã đem lại cho
tôi cái gì? Bạn bè anh ai nấy yên ấm đề
huề, còn anh mãi không bước ra khỏi căn
phòng tập thể như hũ nút. Phải, tôi xấu
xa, tôi bỏ anh để đi với người
khác. Nhưng anh nghĩ coi, làm sao tôi có thể sống
một cuộc đời quanh năm điên đầu
vì hết tiền thiếu gạo?
Bà hàng xóm thở dài:
- Tội nghiệp chú Hải. Chú ấy tốt lắm.
Hồi Mỹ bắn phá, chú Hải xung phong đi
chiến trường. Hoà bình lập lại, chú
ấy may mắn trở về. Bà cụ già ngất
lên ngất xuống mãi mới tin con mình còn sống
thật. Thời loạn nhiều chuyện thật
đau lòng cô ơi. Ai đời, gặp người
thân từ chiến trận trở về mà cứ
hoang mang tự hỏi người đứng
trước mặt mình là người hay là hồn
ma, là mình mơ hay tỉnh? Rồi chú Hải cưới
cô này. Trước kia cô ấy đi văn công.
Ban đầu, vợ chồng hạnh phúc lắm.
Bà ngừng lời, bỏ miếng cau vào cối
trầu bé, nghiền vụn rồi thong thả:
- Được 1 năm, họ sinh con. Mãi đến
lúc nhìn hình hài dị dạng của thằng bé,
chú ấy mới biết mình nhiễm chất độc
màu da cam. Đứa bé bị teo não, nằm liệt
giường. Cuối cùng nó chết yểu.
Vốn đa cảm, nghe bà kể đến
đó lòng tôi trào lên nỗi xót xa. Bà già tiếp
tục câu chuyện:
- Cô vợ khóc hết nước mắt, ấy
thế mà chưa đầy 1 năm sau, chú Hải
vào Quảng Trị tìm hài cốt của đồng
đội giúp gia đình họ, khi trở về
cô ấy đã đi theo người khác. Thế
là chú Hải lụi cụi mỗi mình, mất vợ,
mất con, người đầy vết tích bom
đạn. Hôm nào trái gió trở trời, tôi không
sang là y như rằng chú ấy nằm mặc cơn
đau hành hạ, chẳng thiết ăn uống nữa.
Tôi giục lấy vợ, mọi người có mai
mối cho mấy đám tử tế nhưng chú
ấy nhất định ở vậy. Chú ấy sợ
làm khổ con gái người ta. Tôi với ông nhà
tôi cứ tiếc cho chú ấy cô ạ.
Bà già ngừng lời. Tôi chẳng biết nên
nói gì đành im lặng. Nhưng bầu không khí
ấy bị giọng lạnh lùng của người
phụ nữ xé tan:
- Anh muốn lấy vợ, tuỳ anh, tôi không ngăn
cản. Có điều một nửa ngôi nhà này thuộc
phần tôi. Hoặc anh trả lại tôi nửa
nhà, hoặc phải đưa tôi số tiền tương
đương.
Lúc này, cố gắng lắm tôi mới nghe ra giọng
thầy:
- Tôi chẳng oán trách gì cô. Tin trên tờ báo kia
là do mấy đứa học trò nghịch ngợm
đăng lên. Về phần tài sản cô muốn
thế nào cũng được. Chỉ xin cô
đừng bao giờ dằn vặt tôi vì chuyện
con của chúng ta.
Giọng người phụ nữ không ngừng
chói lên dội vào trí não tôi ý nghĩ nặng nề.
Bài diễn văn cầu cạnh sự gia ân cho vấn
đề hạnh kiểm trở nên vô dụng.
Tôi quyết định không đề cập tới
chuyện đó nữa.
Trên đường về, tôi thấy mình thật
nhẫn tâm khi trước mặt thầy - người
lính vào sinh ra tử, chịu đựng bao nỗi
mất mát trong chiến tranh - tôi đã phát biểu
về chiến tranh thản nhiên như nói chuyện
bà hàng thịt cân điêu. Nghĩ lại hành động
nông nổi đó, tôi xiết bao ân hận.
Thấm thoát đã mấy chục năm. Bây giờ
tôi là một đạo diễn chắc tay. Công việc,
gia đình và biết bao nỗi bộn bề trong
cuộc sống khiến tôi đôi khi trở nên
vô tâm với quá khứ. Có lẽ dần dần,
tôi sẽ quên chuyện hỏi thăm thầy nếu
không có một buổi sáng kia, đột nhiên tôi
nhận được điện thoại của
Hương còi. Sau vô số lời hỏi han, Hương
buồn rầu hỏi:
- Hoài này, tao biết mày bận, nhưng có thể
thu xếp về thăm thầy Hải một buổi
được không? Thầy đã nghỉ dạy
về quê.
- Hiện tại thầy vẫn sống một
mình à?
- Thầy sống cùng bà mẹ. Mỹ béo, Thuỷ
kều, Huyền và tao bàn bạc cả rồi. Cả
hội đang đợi ý mày. Đi chứ?
Hương nói giống một mệnh lệnh hơn
là lời đề nghị. Tôi chần chừ,
tính toán giây lát rồi đồng ý.
Trên đường đến Ninh Bình - quê thầy,
tất cả chúng tôi ôn lại kỷ niệm thời
cấp III, ao ước giá ở gần nhau thì vui
bao nhiêu. Mải chuyện công việc, chồng con,
chuyện cuộc sống, thoắt cái, cánh đồng
lành đã hiện ra trước mắt.
Tìm nhà thầy không khó. Chúng tôi đi theo hướng
chỉ dẫn của một đứa trẻ
"Các cô cứ đi hết đoạn đường
có luỹ tre này, rẽ phải đến đúng
nhà thứ ba".
Đây rồi. Ngôi nhà nhỏ yên tĩnh khuất
sâu hàng rào dâm bụt lác đác vài chùm hoa đỏ
tươi. Cánh cửa tre giản dị để
ngỏ cho thấy chủ nhân có nhà. Chúng tôi nhìn
vào khoảng sân rộng đầy cây xanh. Thầy
có vẻ gầy ốm hơn xưa, hẳn là bởi
những mảnh đạn ngày càng đâm sâu vào
thân thể và các vết thương không thể
lành. Thầy ngồi trên xe đẩy di chuyển
những bước khó khăn. Người đẩy
xe không ai khác ngoài bà mẹ già mắt mờ chân
chậm. Một ngọn gió nhẹ cuốn mấy tờ
giấy trên lòng thầy rớt xuống sân. Thầy
xoay sở một cách khó nhọc, bàn tay vươn
ra, với mãi theo những tờ giấy mỏng từ
từ rơi mà không sao với tới. Cánh tay thõng
xuống bất lực hệt như ánh mắt buồn
bã của thầy. Bà mẹ lật đật đẩy
xe tới, còng lưng nhặt chúng hộ người
con. Khoé mắt bà rách ra, cạn khô.
Trước cảnh tượng ấy, tôi đứng
lặng, đầu óc tê đi. Nhìn sang mấy người
bạn thấy ai cũng rưng rưng nước
mắt./.
Phạm Đan Phượng