|
Người
xưa
Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà,
treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông
"Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người
thương của má.
Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không
già đi bao nhiêu nhưng tóc đã rụng nhiều để lại cái
trán rộng như sân bay Trà Nóc. Hiên luôn luôn thấy ông
gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có
mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thân tình gì
nhau. Cứ nói với một đứa bé mười, mười hai tuổi
rằng cái ông đang nói trên ti-vi hồi đó thương má
mầy, nó sẽ dõi theo ông ta bằng một sự quan tâm nào
đó không lý giải được. Ngay từ khi ông còn tại
chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên ti-vi với
sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn
trở, đấu tranh. Hiên cho rằng đôi mắt thể hiện được
con người. Ông từ chức chủ tịch trước nhiệm kỳ
hồi cuối năm rồi với lý do sức khỏe kém, không đủ
năng lực để làm việc. Hiên cố làm như mình chẳng
bao giờ quen ông. Bảy năm, đủ để ông già đi và Hiên
bỏ bộ dạng đứa học trò quê mùa cũ. Hiên hỏi ông
muốn viết hồi ký ở dạng nào. Hẳn nhiên là có
nhiều cách viết khác nhau, để lại cho con cháu thì đào
sâu về đạo đức, lối sống, về buổi đầu lập thân
cực nhọc ra làm sao để lại cho đời sau cơ ngơi, sự
nghiệp nầỵ Nếu xuất bản hàng loạt thì chú trọng
những công việc, thành tích trong đời... hoặc chỉ
viết riêng cho một mình ông thôi, sống giấu kín, chết
mang theo. Ông cười rất đẹp (đôi lúc có những nụ cười
như thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà):
- Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêu Và viết thật.
Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói
thật. Ông lại cườị Má ơi!
Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa
học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên
đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời
của họ. Ai cũng làm tỉ mỉ điều tốt, điều cao thượng
hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng
thương mến với tất cả mọi người. Hiên nhận ra
một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi
lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi
con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế
lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì
chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải
thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình.
Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình
bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới trang
cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt,
tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ
ngớ ngẩn của Hiên: "Thì tật con người ta vậy mà...
". Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu
nầy không ham, không thấy vui đâu
Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người
bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái
quý giá nhất của hợp đồng nầy là được ông tin
cậỵ Ông nói với Hiên về tuổi thơ, về quê hương,
về tất cả những chiến công và những lỗi lầm.
Những nơi ông đến rồi đi và ấn tượng những người
ông gặp... Buổi tối, trở về căn nhà vuông vức như cái
bánh chưng, Hiên mở máy ghi âm để ghi lại giọng nói
điềm đạm như thể dè dặt của ông và chợt nhận ra
mình viết cái hồi ký không phải cho riêng ông. Hiên
viết cho những đồng đội đã hy sinh xương máu để giúp
ông lập nhiều chiến công. Hiên viết cho những người
cộng sự cùng ông đưa cái địa phương nầy đi lên,
được biểu dương thành tích. Và Hiên hạnh phúc viết
về một bóng hình mơ hồ nào đó mà ông đã chia tay
trong quá khứ nhưng luôn hiển hiện bên ông. Hiên không
chắc chắn đó có phải là má Hiên không. Thường thì
đàn ông không nhớ sâu sắc và yêu sâu sắc như người
đàn bà.
***
Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra
một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng
nhân tạo. Vợ ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không
có những đứa con trai, con gái. Ông bảo bà yếu ớt,
hay đau hay bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng,
mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc.
Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên
hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai
mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến
nhà ông như mọi ngàỵ Sáng nào ông cũng rang cơm và
chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột cơm
se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũi.
Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân
hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng
đá đặt dưới bệ cửa sổ. Mầu của buổi sáng trong
ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm saọ Hiên bảo:
- Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú
một cô. Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?
- Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng
mềm và lạnh lẽo:
- Thôi, cháu. Trễ quá rồi.
Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi,
"tự nhiên thèm gặp một người" rồi quay sang
hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên
còn chờ đợi gì mà không gật đầu. Hiên nhận thấy
con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng
nhùng thiện- ác, đúng - sai, giả - chân... Cả trong tình
yêu cũng vậy. Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang
vãi nắng lên cao.
Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời
ông và đã qua bao ngoặc trái ngoặc phải, leo bao đồi
dốc, băng qua những cây cầu sang sông rồi một ngày, Hiên
nhìn thấy má mình như một ga xép hiện rõ dần lên
trong đêm tốị Một ga xép với đầy đủ vẻ đẹp
của nó: thầm lặng, đìu hiu, nhưng rất trân trọng đón
đưa những con tàu xuôi ngược.
- Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng
chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thương
cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nụi, hai đầu
cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên
nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nào. Tôi thương
cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng
mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo,
"con" út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi
lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó
quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa
dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra
bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho
"má". Cổ không đẹp lắm, ừ giống như cháu
vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng
nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi
thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét
tiếng ác. Gia thế cổ là vậy. Cổ chấp nhận thương tôi
mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc
chiến tranh nầy. Cháu cũng biết thân phận của tôi mà,
ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách
mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng
không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu
bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.
- Cháu cũng nghĩ
vậy, chú à.
- Hiên gật đầu
- Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh
vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau,
lâu quá rồi mà còn đau hoài.
Hiên cũng vậy. Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh
từ ngày thơ bé. Tụi bạn chơi trò đánh trận giả, bao
giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn
nhất, nó chống nạnh cười khì khịt: "Mày phải
ở "bên nó". Má tao nói hồi đó ba mầy đi lính
quốc gia". "Bên mình" bắn "bên nó"
phằng phằng, Hiên cũng bắn lại phằng phằng nhưng Hiên
thì phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để
chết, Hiên giật nảy lên, giãy giụa, thằng Đen đứng
vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: "Con nhỏ
nầy chết y hệt ba tao"". Hiên cũng khóc. Những
đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu
đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngây Đen thôi
hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.
- Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín, mười,
cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ.
Địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Tề ngụy gom
dân vô ấp chiến lược, trong đó, nhà cổ đi đầu. Người
xuôi kẻ ngược, cổ chỉ kịp đầm đìa nước mắt và
hẹn nhau hai tiếng "hòa bình". Coi lại, cả đời
chúng tôi rượt đuổi nhau. Cổ bỏ nhà ra ấp chiến lược
mới chín tháng thì chúng tôi mở rộng căn cứ về xóm
quê ở. Tôi dọn dẹp căn nhà đầy mạng nhện và bồ hóng
của cổ để làm nơi làm việc. Hôm một bà má đi chợ
về ghé báo con út Xuyến nó lấy một thằng lính ngụy,
đêm đó bom bỏ vụn căn nhà. Tới bây giờ, tôi cũng không
hiểu làm sao mình còn sống được, nhưng hôm đó, trong
cái hầm, nước lỏng bỏng, tôi tìm được trong hốc đất
một cái khăn trắng thêu hai con chim đậu trên cành mận
trổ đầy hoa, và một dòng thêu dở: "Đường dài
ngựa chạy biệt tăm... "
... " Người thương có nghĩa trăm năm cũng
về".
- Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm
- Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là
trong trường học.
Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm
lại "Người thương có nghĩa trăm năm cũng
về". Mặt ông hơi tái đi…
- Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi,
cháu à. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã
bỏ quạ Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm Bí thư huyện thì
nghe tin chồng cổ vượt biên.
- Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc
phải từ bỏ tất cả, không ai chấp nhận chú lập gia
đình với một người đàn bà đã có một đời chồng
là lính ngụy.
Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một
niềm đau xót:
- Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gái.
Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà.
Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:
- Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra
mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt
qua mọi trở ngại để tới với người ta.
- Cháu đã làm thử chưa?
- Rồi - Hiên quả quyết.
Tôi cũng có lần làm như vậỵ Có một lần, tôi về
thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng
vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài
chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bật
kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó.
Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Tôi nhìn cổ và
nghĩ rằng mình có thể bỏ hết tất cả để về đây
để che chở cho cái bóng nhỏ nhoi đó suốt đờị Nhìn
tôi, cổ mừng xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã
đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm
sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi say.
Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ
nhìn tôi hoài. Tôi ngã mình trên võng mà khói cứ bay
nồng mũi. Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp
chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên ba tuổi
của cô. Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước
cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo
qua hai cây cột, đứa con gái ngủ. Cô chỉ khóc, khóc
thật nhiều mà có nói được gì đâu Vậy mà hai đứa
thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm
những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước
hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm
rất nghèo. Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình
nuôi nấng, che giấu chúng tôi, cuộc sống rất khó khăn,
mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta
lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém, bà
con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo
quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay
không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu
tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậy. Mà,
có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho
làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc
đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôi. Tôi thương
cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi
sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy yêu thương như cháu
bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị,
quyền lợị Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ,
biết so đo. Tôi lấy vợ, mà tội nghiệp tôi lắm, lấy
vợ mà cũng so đo. Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức
của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối
với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi
thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn lại quá ngán
mà bỏ thì tiếc.
Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như
quầy dừa rụng xuống vườn ranh giữa buổi trưa vắng.
Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một
niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình tạnh
hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.
- Chú à, bây giờ cô ấy ở đâu?
- Cháu có biết xóm Trầu. Một cái xóm đẹp. Căn cứ
cũ của chúng tôị Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là
một cái đầm nước gió ơi là gió... Và một hàng dừa
nước bên sông nghiêng mình soi đáỵ Những ngày gió chướng
về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng
xớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại
xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân người. Hàng
bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự
đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chaỵ Sau vườn,
dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò
ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé ao. Và ở đó có
má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành... Sớm sớm,
ngồi xắt chuối quết nát trộn với cám cho bầy vịt
Xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà
ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy
ba Hiên tháng chín, tháng ba năm sau giải phóng miền nam.
Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời nó ngắn ngủi
biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên
xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hũ sành bể nát,
không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai,
làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày
cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên
có về không? Một người quen cũ có về không? Khi ba Hiên
đi học tập cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có
ba mà không thấy tủị Ba Hiên về, ba năm sau xuống tàu
vượt biên. Hiên đã là một con bé lạ lùng. Hiên có
thể rạch ròi từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi
là lỗi của ông vì ông nghĩ rằng đất nầy không cưu
mang, không liên quan tới chuyện mối tình xưa gì gì đó
của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa
nhỏ le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây
giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Hiên
vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một
đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì
hôn lên má nhau thôi, nếu có thể) lại làm cho người
ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậy. Một lần xem ti-vi, nhìn
ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất
nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy
tình. Hiên có lần bảo: "Con mà thương ai thể nào
con cũng lặn lội lại nói với người ta liền". Má
Hiên cười: "Con còn trẻ, má già rồị Mà, má có
xứng gì đâu... ". Hiên chợt nhận ra, thế hệ của
mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời
của má nhiều
- Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng
ba năm rồi tôi không về...
Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình: Không, cái xóm
đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó
vẫn vậy. Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng
soi mình xuống Đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa
lạị
- Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầu Cháu chắc
chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới
trăm năm.
- Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên:
... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhà ông, nhà đã khóa
cửa ngoàị Hiên quay về chỗ trọ thì nhận được lá
thư nhỏ. Thư của ông, Hiên cứ cầm thư mà xuống nước
mắt. Ông viết: "Cuộc đời đã tằn tiện chia sớt
lại cái cơ hội cuối cùng của chú, cũng bởi vì chú
đã hoài phí nhiều Chú đã nhận ra cháu rồi, cháu gái
à. Chú chuyển lời xin lỗi đến má cháu. Chú bệnh,
bệnh nặng. Không còn ham hố, vướng bận gì nữa, chú
cũng không thể trở về, bởi vì chú không muốn làm
một gánh nặng cho má con cháu lúc cuối đời... Chú thương
cháu nhiều, con gái nhỏ... ".
Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao,
trời đất quỷ thần ơi, những người lớn. Đường đời
gang tấc mà vì nỗi gì đi vòng cho xa hoài, xa mãị Hiên
lặng người, tới bây giờ Hiên cũng không biết ông
bệnh gì, nghiêm trọng ra làm saỏ Hiên không biết. Má
ơi!./.
Nguyễn Ngọc Tư
|
|
|
|