Chiều ba mươi Tết, trời đất đã đầy
chất xuân, chiều phơn phớt xanh màu khói hương. Mấy ngày
qua tôi dạo khắp nơi từ chợ hoa này đến chợ hoa khác
tìm mua cành mai về chơi Tết, chẳng có cành nào vừa ý
mà giá lại rất đắt. Ý tôi muốn kiếm cành bạch mai.
Đến đâu hỏi mai trắng, người ta cũng cười, nói:
"Chợ này mà ông tìm mua mai trắng, chắc phải đôi
ba cái tết nữa chưa chắc đã có. Bạch mai hiếm lắm,
nếu có cũng quý như vàng, không ai đem đi bán mà cũng
chẳng ai có đủ tiền mua". Tôi thất vọng, hoá ra
mai trắng hiếm đến thế sao. Tôi nhớ ngôi từ đường
bên ngoại tôi, phủ Tuy Lý Vương đầu ngõ có gốc bạch
mai già, thân cây to lớn, bọn trẻ con leo lên được. Má
tôi nói khi bà còn nhỏ cây mai này tết đến hoa nở trắng
cành. Tôi hỏi có thật là màu trắng không? Má tôi nói
trắng, không phải trắng đục như giấy mà trắng trong
ngần, hương đưa ngào ngạt. Sở dĩ tôi nghi ngờ màu trắng
vì đã có lần tôi được một ông bạn thầu khoán nhà
rất giàu mời tôi đến uống rượu thưởng xuân và nhất
là xem cành thanh mai (mai xanh) nở. Tôi hăm hở đến và
khi thấy cây gọi là thanh mai, tôi có hơi thất vọng.
Theo tôi đấy không hẳn là mai xanh, chỉ là cây mai
vàng, có điều màu vàng nhẹ, ấy là màu vàng chanh, nhưng
người chơi hoa chỉ muốn cầu kì gọi là mai xanh. Tuy
là con cháu, tôi cũng chưa được thấy gốc bạch mai
trong phủ Tuy Lý Vương nở hoa. Mấy năm sau tôi trở lại.
Phủ thờ đã tiêu điều, chứng tích của một dòng họ
đi xuống. Sau thì tôi nghe phủ đã bán, con cháu đi tứ
tán. Người mua biến phủ làm nơi du lịch giải trí,
quán cà phê, chỗ ăn chơi và tôi còn nghe gốc mai trắng
đã bị đốn từ lâu. Như thế niềm ao ước một lần
được xem mai trắng của tôi chưa trọn vẹn.
Và chiều hôm nay, chiều ba mươi tôi vẫn
còn lang thang và hy vọng sẽ tìm được cành mai ưng ý,
tôi đã bỏ mộng tìm mai trắng, giờ đây tôi chỉ mong
có được cây hoàng mai trông cho được mắt là quý rồi.
Thế mà mãi vẫn không có. Đến chiều tôi quay về,
trong bóng hoàng hôn nhạt nhoà, bên đường, có người cầm
cành mai lớn đứng chờ bán, tôi mừng lắm. Suốt cả mấy
ngày này cứ lặn lội trong chợ tết với bao nhiêu người
đông đúc ồn ào chỉ cốt để mua một cành mai thế
mà không có, mệt đứ đừ mà vẫn chưa tìm được cành
nào vừa ý mà giá lại cao. Giờ đây thấy người đứng
bán, đứng riêng rẽ nơi chỗ vắng, không ai đến dòm
ngó tranh mua tranh bán tôi rất bằng lòng, tôi ghé xe
vào. Cành mai vàng khá đẹp, hoa tuy nhỏ nhưng rất nhiều
búp, dáng lão mai. Người bán là một người đàn ông
trung niên tàn tật. Ông mất một chân, tay cầm chiếc nạng
nhôm, bàn chân còn lại mang dép lốp, đầu đội nón cối,
khoác áo quần bộ đội cũ. Ống quần bên chân mất
ông cột túm lại vắt lên, ống quần bên kia, vải nơi
gối mòn rách một đường ngang, để lộ cái đầu gối
gồ lên như một gốc cây, màu tím tái như cái mào gà dịch.
Tất cả mọi thứ trên người ông là hiện thân của người
lính chiến, hình ảnh cũ kỹ của một thời đau thương
mà kiêu hãnh. Người cựu chiến binh chưa già song trông
ông tiều tuỵ quá. Ông nói: "Cứ mỗi lần nghe tin
đài báo gió mùa đông bắc thì khiếp. Bao nhiêu tàn
tích chiến tranh, cứ chực gió đông đến là động đậy.
Xương cốt như củi mục. Một quả 81 nổ cạnh tôi, mảnh
kim khí tiện đứt chân, nhiều hạt cát chui vào da thịt,
lâu lâu chúng lại trồi ra một hạt. Thế mà mấy lúc
này đài cứ báo hết đợt áp thấp này đến đợt áp
thấp khác, tôi nghe như sắp bị đem đi tra tấn…".
Tôi dừng lại ngắm hoa, hỏi giá, ông đẩy
cành mai về phía tôi, nói: "Chiều rồi, ông cho bao
nhiêu cũng được…". Thấy cây mai đẹp và cách mua
bán của người đàn ông, tôi có cảm tình ngay. Tôi lấy
tất cả tiền dành mua mai trao cho ông. Ông không đếm lại,
cho vào túi quần, lửng thửng xách cái thùng đựng nước
dành cho việc cắm mai đi xiêu vẹo trong bóng hoàng hôn.
Tôi chạy theo dừng xe lại mời ông lên xe tôi đưa về
nhà. Tôi ngồi trên yên chờ mãi không thấy ông thấy
ông leo lên xe. Tôi thực vô tâm, người què cụt như
ông làm sao lên xe một mình được. Tôi dựng xe đỡ
ông lên, lại còn cái thùng đựng nước. Ông ngồi sợ
ngã ôm lấy lưng tôi như trẻ con. Tôi chạy xe rất cẩn
thận và chầm chậm theo sự dẫn đường của ông. Trên
đường ông tâm sự:
- Tết nhất đến nơi, trong nhà không
còn một đồng ăn tết chữa bệnh. Đành chặt cây đem
bán, đau lắm, nhất là cái cây đầy kỉ niệm này.
Không bán lấy tiền đâu?
Cành mai này với tôi có thật nhiều kỷ
niệm. Bán đảo Cam Ranh đầy cát và đầy mai. Chắc ông
đã nghe hay đọc đâu đó về một rừng mai (Mai lâm).
Song ngoài đời, nhất là vào thời đại bây giờ đi tìm
rừng mai thực là muôn vàn khó khăn. Thế nhưng ở ta
cũng có, đích thị là một khu rừng mai bạt ngàn mọc
trên những đồi cát, ở cái nơi dân chúng lâu nay không
được xâm phạm. Đó là khu vực sân bay và bến cảng
quân sự Cam Ranh, Khánh Hoà. Nhờ chốn ấy là khu vực
quân sự không ai được xâm phạm nên khu rừng mai vẫn
tồn tại qua bao mùa xuân mai vàng cả núi đồi. Tết đến
mai nở vàng rực, đẹp thế mà bọn nguỵ để mất chủ
quyền, vùng này từ lâu đã là nhượng địa của Mỹ.
Tôi, lính đặc công, đơn vị chúng tôi đánh vào thắng
lớn, hoàn thành nhiệm vụ, diệt rất nhiều tên và thu
rất nhiều khí tài của địch đến khi rút lại bị bọn
tàn quân kêu pháo bắn theo. Tôi đi sau cùng, bị thương,
lạc đồng đội, tôi chui vào bụi mai rậm rạp trốn,
mùa này đang đông, nhờ mấy cơn mưa rào, mai núi xanh tốt
đầy lá. Nằm trong bụi nghe cả tiếng xe chạy, tiếng bọn
lính nguỵ, lính Mỹ, chung quanh tôi hạt mai rụng xuống
nẩy mầm trên cát mọc đầy mai con. Tôi nhổ mấy cây
con cho vào ba lô. Hôm sau thì tôi tìm lại được đơn vị.
Tôi đem mấy cây mai con trồng ở doanh trại. Hoà bình,
tôi bứng cây về vườn nhà. Nay cây đã lớn, đã tới
lúc cây trả ơn người. Thế mà người phụ nó, chặt
cây đem bán…
Nhà ông ở trong xóm, tôi lái xe quanh quẹo
nhiều lần mới đến cái ngõ vắng, có cổng gỗ, trong
là vườn cây. Ông khó khăn lắm mới xuống xe được,
ông cảm ơn và chào tôi, ông chưa chịu vô nhà, cứ quay
đầu nhìn cành hoa tiếc thương, cảm động như chia tay
người thân. Ông đu người trên chiếc nạng nhôm đi một
đoạn quay lại nói: "Ông biết nhà rồi đó. Tết năm
nay, nhờ ông đến nhà uống chén rượu nhạt, và tôi mời
ông xông đất".
Về nhà tôi cho cành mai vào cái ché đổ
nước để trước bàn thờ ông bà. Cành mai này đúng
là mai núi, dáng khô cằn, hoa màu vàng nghệ, một màu
vàng sắc lịm ngọt ngào. Đêm ba mươi nửa khuya, tôi thức
dậy cúng giao thừa. Trên cành hàng loạt hoa hàm tiếu
hé nụ trẻ thơ. Hi vọng sáng mai sẽ nở rộ, báo hiệu
một mùa xuân tốt lành. Với niềm vui ấy tôi đi ngủ.
Trong mơ hay không phải trong mơ tôi nghe nhiều âm thanh mơ
hồ kì dị, tiếng con gái nức nở, đàn bà tỉ tê, trẻ
con rấm rứt, âm thanh li ti, rin rít, vo ve như ruồi, như
muỗi, giun dế, sâu bọ vỗ cánh rì rào bay chung quanh
mùng. Tôi chẳng biết ấy là hiện tượng gì?
Sáng tinh mơ cửa sổ lá sách hướng ra
đường cái hơi trong, tôi đã thức. Còn quá sớm, buổi
ban mai đầu xuân chỉ mới lấp ló ngoài vườn, chưa chịu
vào nhà. Tôi mở đèn, cái đập vào mắt tôi đầu tiên
là cành mai. Trước mắt tôi là một cành mai trắng
toát, tất cả các búp già non đều nở đồng loạt, một
màu trắng trong như bạch ngọc! Kì dị làm sao? Tôi nhìn
thực kỹ xem có điều gì làm cho mình nhầm lẫn không?
Tôi hoa mắt, hay chỉ vì dưới làn ánh sáng đèn huỳnh
quang làm cho hoa vàng thành hoa trắng? Tôi tắt đèn, mở
tung cửa chính. Ánh nắng tràn vào, đúng thật rồi hoa nở
trắng cành! Cành mai trắng mộng! Đâu đó xôn xao tiếng
người, tiếng xe cộ trẩy hội xuân.
Nhớ lời người thương binh bán mai trời
sáng mồng một đến xông đất, tôi vội vàng mặc quần
áo chỉnh tề, đem theo ít tiền mừng xuân. Tôi tìm đến
nhà ông bán mai, hỏi luôn hiện tượng đổi màu của
cành huỳnh mai thành cành bạch mai. Một lúc sau đã tới
cổng nhà ông. Hôm qua chỗ này vắng vẻ là thế nay lại
đông đúc. Nhiều người vây quanh cổng nhà người
thương binh. Chắc đã xảy ra sự gì? Tôi chen vào, thấy
tấm bảng báo tang. Ông tên là Lê Hoàng Đạo, 59 tuổi,
qua đời lúc hai giờ sáng nay, danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ
và nhiều huân huy chương…
Giờ đây tôi hiểu vì sao cành mai đã trắng
hoa tang./.
Quý Thể