Trong bóng tối loãng dần, Tâm đưa mắt nhìn nhưng không
nhận ra con tàu mà sớm này nó đã đưa anh cùng nhiều
ngư phủ ra khơi đánh cá. Nó lẫn đâu đó trong vô số
con tàu trăng trắng neo san sát kéo dài ra cửa sông, nơi
giáp biển. Cột buồm, cột hàng hải vươn chi chít như
ăng - ten phố thị. Nếu là tàu của mình, Tâm ước, mình
làm cho nó có màu sắc và hình dáng khác biệt. Mình sẽ…
Tâm bỏ ngang cái tương lai vừa thoáng đến. Anh bước một
mạch xuống bến sông, nơi chiếc ghe cào, tài sản lớn
nhất của gia đình anh đang cột vào đó. Nghe tiếng động,
mấy con cá thòi lòi, cá bống sao vội trượt roèn roẹt
trên bãi bùn lấp xấp nước. Gió đưa đẩy xạt xào
cành lá vẫn nghe rõ tiếng rơi lủm bủm của những trái
đước già. Nước triều đang lên. Tâm nới dây buộc
ghe rồi bước vào nhà, quên khép cửa sau lưng. Hạnh hấp
tấp vặn cao ngọn đèn, nói:
- Mình à, coi bộ nước hơi lớn!
Tâm quay ra khép cửa:
- Gió ngoài biển thổi vô mà, đâu sao!
Thấy vợ còn đứng bần thần, Tâm giục:
- Cơm chín dọn lên, anh ăn xong chuẩn bị đi là vừa!
- Đợi em hâm nồi cá kho!
Nồi cá bắc lên bếp, Hạnh lui cui gọt dưa bên ánh lửa,
Tâm xem qua các thứ vợ đã ràng rịt trong nhiều túi ni
lông: thuốc hút, thuốc cảm, kem đánh răng, nửa cục xà
bông, chai dầu gió xanh mới bóc vỏ và lọ cốm nghệ,
thứ thuốc nhân nhẩn khó nuốt mà Hạnh ép anh uống mỗi
ngày. Tâm để lại chai dầu gió xanh dưới gối cho vợ
và nhét lọ dầu cù là con cọp theo. Anh dồn các thứ
vào túi xách đựng quần áo, nhấc lên rồi để xuống.
Đi biển lần này đông, vui mà gọn. Ăn uống trên tàu
lo hết. Tâm chỉ sợ cái bao tử trở chứng. Khi Hạnh
bê mâm cơm lên, Tâm còn chồng lại mấy cái cần xé và
vắt mớ lưới lên kèo nhà. Biết vợ không quen ăn sớm,
Tâm ăn một mình và ăn rất ngon. Bới cho chồng chén thứ
ba, Hạnh nghe tiếng lục cục của gà mẹ và tiếng lít
chít của gà con. Chị mồi thêm cây đèn ống khói, bưng
ra chuồng gà. Trở vào, Hạnh khoe với chồng:
- Gà nở được năm con, ba con khẽ mỏ.
Hạnh cho tay vào túi ni lông lôi ra ba trứng gà cùng với
hai trứng cầm trong tay đưa ra trước mặt Tâm:
- Cái này phần anh mang theo!
Tâm buông chén đũa, cười cười:
- Lần này anh đi đông một tiểu đội mà em cho chừng
đó trứng, làm sao chia?
- Ờ, há!
Hạnh vụt hiểu, sựng lại, phụng phịu. Tâm vui vui
khi thấy vợ dù bụng mang dạ chửa, vẫn giữ được vẻ
thơ ngây ngày nào. Tâm nhớ lại và thấy lâng lâng. Sự
hồn nhiên mộc mạc như chài như lưới ấy đã buộc bước
chân phiêu dạt của anh vào bến bờ này. Hạnh lần lại
chỗ túi xách. Mở túi, chị thấy thiếu cái đài nhỏ
như bàn tay mà đi biển lần nào Tâm cũng mang theo. Hạnh
vào buồng mang cái đài ra, kéo miệng túi định bỏ vào,
Tâm ngăn lại:
- Ở dưới tàu nghe nói có cả máy hát. Em để nhà
nghe. Đừng lo gì cho anh – Ánh mắt Tâm bao bọc vợ
- Lo là lo cho em ở nhà có một mình!
Hạnh dụi mặt vào ngực chồng:
- Ai nói anh em ở nhà có một mình?
- Ờ, ờ, còn con trai mình nữa!
- Con gái!
- Con trai!
- Con gái!
Tâm ôm lấy vợ. Đợt sóng yêu thương dồi lên khiến
anh muốn ngộp thở trước cơ thể nở nang ấm mềm của
vợ. Chợt tiếng gọi í ới nghe thật gần. Hạnh xô nhẹ
chồng ra. Tâm lảo đảo trong mem nồng lở dở… Quảy túi
lên vai, Tâm xiết tay vợ:
- Thôi, em ở nhà, đừng tiễn đưa, gió sớm sương sớm…
Tâm kéo sát vợ vào, ôm choàng cả hai mẹ con một
cái rồi vội vã chạy đi. Hạnh nhìn theo chồng cho đến
khi Tâm mất hút trong đám đông kẻ ở người đi lao
nhao nơi cầu tàu. Lần lượt từng con tàu nổ máy, nhổ
neo, rẽ nước tiến ra cửa sông lao xao sóng dưới bình
minh toả lan.
***
Hạnh cầm mấy cái trứng đi ra chuồng gà. Ả gà mái
đẻ bỏ ổ trứng đang lẽo đẽo theo gã chồng kiếm mồi
quanh mấy tấm liếp phơi cá. Mẹ gà đang ấp vội xù
lông, nghểnh cổ, mào dựng đứng, tái nhợt. Từ cuống
họng nó phát ra mấy tiếng kêu rục rục, vừa tự vệ,
che chở cho lũ con lít nhít trong ổ. Hạnh trả mấy cái
trứng vào ổ gà đẻ rồi hốt nắm gạo và múc gáo nước
đặt trước tầm nhìn của con gà mẹ. Sau một hồi
đưa mắt láo liên dò xét, không thấy có nguy cơ đe doạ
nào, nó nhảy ra khỏi ổ, sục lẹ vào gáo nước rồi
đớp lia lịa những hạt gạo. Hạnh nhón nhén đến bên
lũ gà con. Chúng đạp những đôi chân nhỏ xíu lên những
cái trứng chưa nở và dẫm xẹp những vỏ trứng mà mới
hồi đêm chúng còn loi ngoi trong đó. Hạnh đặt một chú
gà con vào trong lòng tay, vuốt nhè nhẹ bộ lông trắng
ngà mịn rức. Chú quẹt quẹt cái mỏ vàng tươi vào
lòng bàn tay Hạnh và cất tiếng kêu chíp chíp. Lúc ấy,
Hạnh nghe tiếng chân thậm thịch, tiếng nói râm ran và
một tiếng gọi rồi nhiều tiếng gọi:
- Hạnh ơi!
- Vợ thằng Tâm ơi!
- Con ni, răng không đi tiễn chồng?
- Ôi giời, sao bỏ chồng lùi lũi một mình thế?
Hạnh thấy ấm như nắng sớm tràn vào. Ở làng cá
này, người cố cựu chỉ đếm đủ trên đầu ngón tay.
Hầu hết là dân tứ xứ. Họ đến từ nhiều miền quê.
Kẻ đến trước, người đến sau. Kẻ sắm được tàu
đánh cá. Người tậu được đáy giăng giăng ngoài khơi.
Và đông đúc là tập hợp những "chồng chài, vợ lưới,
con câu". Nhưng với mỗi người, cái làng cá bên bờ
sông rì rầm sóng biển này đã thành chiếc phao cho số
phận lênh đênh, thành bến bình yên cho cuộc đời sóng
gió. Họ bám vào đó và cùng bám với nhau.
Ló mặt vào cửa, Hạnh thấy hàng hiên hẹp và gian
nhà nhỏ chật bước chân. Khi chị lệch bệch bước vào
thì những cái miệng tép lặn tép lội dừng lại. Thay
vào đó là những cái nhìn và dừng lại lâu lâu nơi cái
bụng kềnh càng đã bắt đầu trĩu xuống của Hạnh. Rồi
họ hè nhau, như người ta thường làm khi một con thuyền
mắc cạn, đem kinh nghiệm của người từng vượt cạn
truyền lại cho Hạnh. Yên tâm rằng Hạnh đã lãnh hội
đủ, vài người quay lưng định về, liền bị kéo lại:
- Chồng con đi rồi mà mấy bà làm gì gấp? Ở lại
đây quậy một hồi cho con Hạnh nó… khoẻ!
Nói câu đó là chị Ba Lài, người uốn tóc cao, nước
da xạm nắng. Chị Ba hỏi Hạnh:
- Có gì đãi chị em điểm tâm hôn chủ nhà?
Hạnh còn đang lúng túng, chị Ba Lài đã xăm xăm bước
vào trái bếp, bợ nồi cơm mà Tâm ăn dở đem ra đặt
chình ình lên bộ vạt giữa nhà. Chị cầm đũa bếp nại
cơm cháy với điệu bộ khó nhọc như đào phải đá khiến
cho mọi người cười rộ. Không ai mời ai, cùng một
lúc những ngón tay đeo cà rá mặt đỏ mặt xanh gặp
nhau chỗ giề cơm vàng khấy! Họ nhồm nhoàm nhai ngon
lành như những kẻ đói ăn. Đôi mắt dài sắc như mũi
lao của chị Ba Lài vụt sáng khi thấy bó ngô khoai treo lủng
lẳng trên vách nhà. Chị liền gỡ xuống, mang vào bếp,
thổi lửa phù phù. Mùi khô nướng xộc vào mũi. Chị
Năm Mận, người dong dỏng cao, có búi tóc to mượt sau gáy
lên tiếng:
- Có khô mà không rượu chịu sao được, bây?
Chị Năm dứt lời liền có hai ba mái tóc uốn quăn tự
nguyện đi mua rượu. Chị Năm dặn thêm:
- Nhớ mua chai bia nữa nghen! Ờ, nè, đi ngang nhà tao
ghé lấy hộp sữa rọng trong tô để trên tủ chén.
Khi rượu mang về thì mọi người đã kê dép ngồi
quanh đĩa ngô khoai đặt dưới đất giữa nhà (bộ vạt
được dựng sát vách). Ly rượu đầy tới miệng được
xoay vòng. Riêng Hạnh được chị Năm Mận làm cho một
ca bia sữa ú ụ. Chắng mấy chốc căn nhà ồn ào như cái
chợ. Chị Năm cạn ly, nhìn lướt qua mọi người, nói:
- U quả, mới vắng chồng mà lũ đàn bà đã thành quỷ!
Chị Ba Lài vặc lại:
- Đàn bà là đàn bà khi có đàn ông bên cạnh!
- Khi có chồng bên cạnh chớ!
Người đàn bà áo trong áo ngoài, giọng Quảng, chỉnh
lại.
Gần một nửa ùa theo chị Ba Lài, còn hơn một nửa
ủng hộ người đàn bà giọng Quảng. Chẳng bao lâu,
cái nhóm chợ rối như bầy ong vỡ tổ. May mà hết sạch
hai chai đế. Chị Năm không cho mua thêm, nói:
- Sười rười như vậy là vui rồi. Thôi, ai về nhà
nấy, làm hết công chiện, chiều lợi đây quậy tiếp.
Ờ, nè, chị dặn thêm – Ai có cái gì nhấm được
nhớ mang theo. Đừng xách đít không, nghen!
***
Chiều. Mặt trời còn hơn một con sào mới lặn xuống
biển và bầy gà còn đi long nhong ngoài đường đã thấy
bước chân bôn sôn của chị Năm Mận. Tay chị Năm vung
văng rẽ khô đuối to như cây quạt giấy xoè hết cỡ.
Như những người đàn bà khác của làng này, chị Năm
ít có lúc rỗi rãi. Vô số việc nhỏ, việc lớn trong
nhà, tiếp một phần việc của chồng và thằng con trai,
vá lưới, vá chài, đôi khi gặp con nước thuận chị
theo chồng con ra khơi và cũng tháo vát như một ngư phủ.
Chị Năm được nể nang không phải vì chiếc tàu mũi
sơn đỏ chói chở được mấy trăm cây đá, cũng chẳng
phải vì ngôi nhà mái bằng, nền gạch đỏ au và góc
sân rộng phơi ăm ắp cá, mực, mà do bản tính bộc trực,
rộng rãi và đôi tay mát mẻ khi chị làm bà mụ. Chị
vào nhà, bỏ rẽ khô vào cần xé rỗng rồi trở ra nhấc
bổng tấm cửa ván sang một bên:
- Nhà có cửa mà không để đón gió!
Ngọn gió mang hơi nước mát rượi tràn vào. Gió nắng
phóng khoáng của xứ này đã xua đi những tâm tính bẩn
chật. Chị Năm khoan khoái lùa mớ tóc loà xoà ra sau, miệng
bảo Hạnh:
- Mày rà rà tìm coi đài nào có vọng cổ mở nghe chơi!
Tranh thủ lúc đợi chị em, chị Năm ngã lưng xuống vạt
giường. Hạnh đem gối ra. Chị Năm kê dưới đầu, nói:
- Nằm trên cái gối Hạnh phúc này chắc tao phê quá!
Giọng Tài Linh cất lên. Chị Năm cựa mình rồi nằm
im, chỉ phập phồng hơi thở. Bài vọng cổ dứt, hồn
phách chị Năm mới tìm về:
- Con nhỏ lùn sủn mà sao nó ca mùi quá vậy, mày?
Hạnh ấm ớ. Lùn cao mập ốm thì có can hệ gì tới
giọng hát? Hạnh muốn bẻ lại câu hỏi nghe kỳ cục của
chị Năm nhưng không dám. Tuy chị Năm bỗ bã gọi mày xưng
tao nhưng Hạnh chưa lúc nào tự nâng mình lên ngang hàng
với người đàn bà từng trải và được cả làng nể
trọng. Cái khoảng cách không chỉ là tuổi tác đã khiến
Hạnh ngần ngại bộc lộ mình. Nhìn vẻ bồn chồn của
chị Năm, Hạn e dè:
- Em nghe nói Tài Linh Vũ Linh sắp xuống hát ở miệt
này!
Chị Năm nhổm dậy:
- Thiệt hôn? Ai nói?
- Thì… em nghe người ta đồn.
Chị Năm thở dài:
- Đồn thì đồn hoài mà có thấy bóng dáng ai đâu!
Thấy vẻ tiu nghỉu của chị Năm, Hạnh bối rối bèn
quay lưng đi. Chị Năm gọi lại:
- Mày đi đâu đó?
- Em đi nhóm lửa nướng khô chuẩn bị…
- Để đó, lát nữa tụi tao làm, mày được miễn!
- Vậy… em đốt củi để có lửa than.
- Ờ, cũng được!
Mớ củi bắt lửa nổ lép bép, chị Năm bước xuống
nói với Hạnh:
- Sáng giờ mắt tao giựt giựt hoài, chắc mấy ông
đi chuyến này khá đa!
Hy vọng xoè nở dịu dàng nơi Hạnh. Chuyến này Tâm về
mà kha khá, Hạnh thầm tính, mình sắm thêm một chiếc
cà rá mặt hột dưa, chớ hai bàn tay trống trơn cũng kỳ
kỳ. Còn Tâm sẽ không đeo sợi dây chuyền bằng bạc cũ
xì đó nữa. Chợt Hạnh nhăn mặt, nhíu mày, bỏ dở dự
tính trước cái đạp đau điếng của thằng bé (khi
trêu chồng Hạnh bảo là con gái, ngược với linh cảm của
người mẹ). Hạnh xoa xoa bàn chân nhỏ xíu của con và
nghĩ xem nên mua thứ gì cho cu cậu thì chợt nghe giọng hốt
hoảng của chị Năm:
- Trời ơi! Không biết mấy ổng có kịp quay về?!
Hạnh chạy lên, thấy chị Năm buông cái đài ra, trân
trân nhìn nó. Hạnh nghe tiếng được tiếng mất của bản
tin thời tiết. Xoáy vào tai Hạnh chỉ mấy từ
"bão", "gió giật", "tàu thuyền".
Dưới bếp, củi cháy rừng rực, lưỡi lửa loè khè khẹt.
Chị Năm chạy vào dập lửa. Vội vàng, chị bảo Hạnh:
- Coi gói ghém đồ đạc rồi tới nhà tao, tao về trước
đây!
Chị Năm đi khỏi, Đài lập lại bản tin thời tiết.
Giọng đọc run run như anh ta đang dầm mưa. Một hồi lâu
không gỡ được nắp rương. Hạnh chạy đi tìm con dao
nhỏ để cạy lớp sét gỉ chỗ nút bấm. Mất thêm mấy
phút nữa chị mới nhìn thấy cái cán dao màu cam thòi
lên trên ống đũa. Chị cuộn thêm mấy cái quần, mấy
cái áo của chồng, của mình, quơ lấy cái đài và bọc
mớ đồ đạc của đứa con sắp sinh bỏ vào rương. Bầu
trời đã sà thấp, bao phủ một màu chì xám xịt. Chim từng
đàn hối hả bay về tổ. Bước thêm mấy bước, tiếng
kêu chíp chíp của lũ gà mới nở níu Hạnh lại. Chị
đặt rương xuống đất, quày quả quay vào.
Bão ào đến bằng những luồng gió với sức mạnh
khôn lường. Đến được sau nhà, Hạnh thấy chuồng gà
không còn trên mặt đất. Mấy tấm lá chằm đốp bao
quanh chuồng và những tấm liếp phơi cá vờn vật trên
không. Hai ổ gà bị những cánh tay lực lưỡng vô hình
nhấc lên cao rồi đột ngột hất mạnh xuống. Tròng đỏ
tròng trắng vương vãi. Ổ gà con không còn sót lại một
tiếng kêu. Con gãy cổ, con bẹp đầu, con chỉ là một
nhúm lông dúm dó. Và nhầy nhụa máu những chú gà chưa
một lần được chui ra khỏi vỏ. Gió mỗi lúc một mạnh.
Những luồng gió va đập nhau, giằng xé nhau và cuốn đi
những gì gặp trên đường đi của nó. Cuốn phăng lên
không trung bất cứ thứ gì không gắn vào đất: tấm liếp,
tấm phên, mái lá, mái ngói, mái tôn và vô số vật dụng
cần thiết hàng ngày. Tiếp đến nó giao chiến dữ dội
với những gì gắn chặt vào lòng đất. Thảm đước,
thảm vẹt xanh rì, choãi rộng hàng hà sa số cánh tay
gân guốc bám chặt dãy phù sa chạy dọc theo bờ sông,
phút chốc biến thành mục tiêu tàn phá của nó.
Trên đường đi đến nhà chị Năm Mận trú bão, ngoảnh
lại, thấy ngôi nhà mình chỉ còn là đống đổ nát, Hạnh
không đi tiếp mà quay ngược lại và lần xuống bến
sông. Chiếc ghe cào, tài sản có được sau nhiều năm ki
cóp vợ chồng Hạnh mới sắm được đang vật vã trong
sóng gió. Đoạn dây buộc rít lên ken két. Hạnh cố rướn
tới, chị chưa kịp với tay nắm lấy sợi dây thì cùng
một lúc, những luồng gió giật chiếc ghe lên bờ, va mạnh
vào mấy trụ cầu, vỡ ra nhiều mảnh.
Chị Năm Mận và chị Ba Lài tìm gặp Hạnh, vội xốc
lên. Nửa người dưới của chị ướt sũng.
Trong cơn cuồng nộ của đất trời, Hạnh chuyển bụng
với dấu hiệu bình thường tuy có mấy vết xây xát tứa
máu ở tay, ở đùi.
Chị Năm Mận giữ vai trò một bà mụ điềm tĩnh đồng
thời là vị chỉ huy lẹ trí của pháo đài nhao nhác người
và không hề có thứ vũ khí chống đỡ nào ngoài lời
thầm thì van vái Phật Trời. Chị Năm cắt đặt mọi việc
đâu vào đó khiến cho nét mặt người lớn giãn bớt vẻ
hoảng loạn, còn trẻ con la khóc inh ỏi giờ co trong
lòng mẹ, lim dim ngủ trong tiếng gió giật, sóng gào, nước
dâng, cây đổ, nhà sập.
Tuy nhiên, sự khốc liệt đang nén chặt trong lòng mỗi
người còn dữ dội hơn sự huỷ diệt bao vây. Cho đến
khi người đàn bà oằn mình trong cơn vượt cạn đã bật
gọi chồng thì nỗi hãi hùng lên tiếng:
- Đừng, đừng gọi người đi biển!
Hạnh không dừng lại được. Ai đó vội bịt miệng
Hạnh. Nhưng chị vẫn gọi. Rứt tim rứt ruột mà gọi.
Tiếng gọi vút lên tận trời xanh, dội xuống mặt đất
rùng rùng bão cuốn. Một bàn tay lẩy bẩy kéo chiếc khăn
nhét vào miệng Hạnh.
Khi cái mầm sống khoẻ mạnh xé lòng mẹ ra đời, Hạnh
vẫn còn cắn chặt góc khăn./.
Bích Ngân