Tôi gặp cậu bé Nguyên lần đầu tiên
ở nhà một người bạn. Tối hôm ấy đến chơi nhà Hà
- đứa bạn thân nhất hồi tôi còn là sinh viên - thấy
Hà đang ngồi chơi với một cậu thiếu niên mười bốn,
mười lăm tuổi mặc bộ quần áo bộ đội rộng thùng
thình. Chẳng hiểu sao tôi bị chú bé ấy thu hút suốt
buổi nói chuyện. Có lẽ tại đôi mắt! Ðôi mắt như
mượn của người lớn lắp vào khuôn mặt còn đầy lông
tơ, trông dè dặt và buồn mênh mang. Khi nó cười, thì
khuôn mặt bị biến dạng đi, còn vẫn không xua được
ánh buồn. Lúc nó về, tôi hỏi Hà được biết, năm
Nguyên lên tám tuổi thì bố mẹ bỏ nhau. Thằng anh 16 tuổi
ở với bố, Nguyên ở với mẹ. Ðược nửa tháng, thằng
anh nhớ em quá nên đến xin bố cho hai anh em cùng về ở
với mẹ. Vài tháng sau, mẹ đi lấy chồng. Theo yêu cầu
của người chồng mới, người mẹ bỏ hai đứa con để
theo ông ta. Không chịu theo mẹ về với bố dượng, hai
anh em tự kiếm sống ở với nhau. Năm Nguyên mười ba tuổi,
anh cậu bị bắt đi tù vì tham gia mấy vụ ăn cắp trong
nhà máy. Từ đó Nguyên sống một mình.
Hà kể đến đấy thì có
khách. Khi về suốt dọc đường tôi cứ nghĩ về cậu bé
đáng thương kia. Nhưng tình thương ấy cũng chỉ là cơn
gió lạ tràn qua, khiến tôi có cảm giác se lạnh trong chốc
lát nếu không có một buổi chiều...
Gần hết giờ làm, tôi xin
phép trưởng phòng để đong gạo. Ðầu tháng, lại sắp
tết nên cửa hàng gạo khá đông. Trước tôi có khoảng
bốn chục chỗ xếp lằng nhằng đủ thứ: bao tải, nón
rách, gạch, làn... tôi ngao ngán xếp bao tải vào cuối
hàng rồi lên trên đứng. Trước ô cửa bán người ta
đứng túm tụm chẳng ra hàng lối. Ai ghi sổ xong phải
lách mãi mới ra được chỗ lấy gạo. Tiếng cô bán
hàng đang nói với người mua:
- Ðong hết nhé, một cân gạo
nếp, bảy cân gạo, năm cân mỳ, năm đồng tám.
- Chị cho em đong một nửa thôi
- người mua là một chú bé.
- Hôm nay không có bao lẻ - Cô
ta gắt gỏng.
- Dạ... nhưng... em không đủ
tiền.
Hai bên đôi co, những người
đứng phía sau nhao nhao:
- Ði đong gạo không mang đủ
tiền thì làm sao?
- Thôi tránh ra cho người khác
lên mua. Mấy ông bà phía trên xích lên cho, đừng để
ai chen vào.
Chú bé không mua được gạo lách
đám đông chui ra. Hóa ra là Nguyên. Mặt nó đỏ bừng,
tay cầm cái bao tải bị rách mấy chỗ được buộc túm
lại, giận dữ nhìn những người đứng sau vừa phản
đối, nó lẩm bẩm câu gì đó rồi bỏ đi. Sau giây
phút ngỡ ngàng, tôi chạy theo gọi giật lại:
- Nguyên, quay lại chị bảo.
Nhận ra tôi, đôi mắt dịu
đi nó khẽ cười:
- Chị cũng đi đong gạo à!
- Em không mang đủ tiền hả?
Chị có đây này, quay lại đong đi.
Nguyên lắc đầu, tôi nắm
cánh tay nó lắc nhẹ:
- Tết đến nơi rồi, em còn
định để đến hôm nào nữa?
- Dạ... - Nó ngập ngừng - Em
hết tiền rồi... Vay chị lấy đâu mà trả. Em chẳng
đong nữa đâu - Nó hất nhẹ tay tôi như giận dỗi, bỏ
đi. Tôi đứng nhìn theo cái dáng lòng khòng trong bộ áo
quần bộ đội rộng thùng thình ấy, cái đầu ngẩng
cao vẻ bất cần, tôi chợt hiểu: Nguyên đã khước từ
sự thương hại của tôi.
***
Với hoàn cảnh riêng của
mình tôi không mặn mà lắm trong việc đón năm mới. Sáng
ba mươi tôi dậy sớm đi chợ, nấu nướng. Cả mấy ngày
tết, tôi chỉ làm cơm có ngày này, trước là để cúng
tổ tiên, ông bà, bố mẹ, sau là để ăn lai rai cả tuần
lễ, khỏi phải lịch kịch.
Làm xong, ngồi ăn một mình thấy
chán ngắt. Mời mấy đứa bạn nhưng chúng đều từ chối.
Cũng phải, tết nhất nhà nào chẳng muốn sum họp đầy
đủ, người nào không được may mắn ấy phải chịu.
¡n xong, tôi lấy đĩa thịt gà, đĩa xôi, một khoanh
giò, hai cái bánh chưng, gói riêng từng thứ vào tờ báo
để đem xuống nhà Nguyên. Sau buổi gặp nó ở cửa
hàng đong gạo, tôi nảy ra ý định sẽ tìm đến nhà
nó. Mục đích để làm gì tôi không nghĩ đến, chỉ biết
Nguyên là đứa trẻ rất đáng thương. Thêm người bạn
nhỏ tuổi ấy cũng tốt chứ sao!
Qua ngã tư Cửa Nam, tôi mua một
bó hoa hồng trắng. Nhà Nguyên ở gần nhà Hà, nhưng tôi
không qua rủ Hà vì sợ mối quan hệ láng giềng sẽ làm
Nguyên ngại ngùng. Phòng bốn mươi nhăm, bốn mươi sáu,
bốn mươi bảy - đây rồi! Tôi ngập ngừng gõ cửa. Liệu
có bị chú bé đuổi ra với túi đồ này không nhỉ?
Thái độ của nó hôm đong gạo làm tôi chờn chờn.
- Chị! Sao chị biết nhà em? -
Nguyên mở cửa, cười rất tươi chào tôi. Chiếc áo bộ
đội mặc vội vẫn chưa cài hết cúc.
Tôi bước vào giữa phòng và
chưa biết phải làm gì. Căn phòng ngoài rộng chừng mười
hai mét vuông giữa nhà sát tường kê chiếc bàn nhỏ và
bốn chiếc ghế, trong góc nhà có một cái tủ con, cánh
đã bị mọt thủng lỗ chỗ. Có thể đó là gia sản duy
nhất của bố mẹ nó để lại. Nguyên vào buồng trong,
lúc sau đi ra, thấy tôi vẫn đứng như trời trồng giữa
nhà, nó kêu lên:
- Chết, chị ngồi xuống ghế
đi. Ðun bằng "tàu ngầm" đấy chị ạ, nhanh không?
- Nó giơ ấm tích nước còn nghi ngút khói lên, rót ra
hai chiếc chén để chỏng chơ trên bàn - Em chẳng có
chè đâu, chị uống tạm nước trắng nhé!
- Chị đến chơi, mặc dù chưa
được chủ nhân đồng ý. Ðứng ngoài cửa lo bị lót
lá dắt tay ra ngoài đường, ai dè được chiêu đãi món
thanh thủy.
Nghe tôi nói nó cười, nhưng nụ
cười ấy nhanh chóng biến mất. Tôi trách mình đã đùa
quá sớm. Nguyên ngồi xuống ghế ỉu xìu:
- Cái hôm đi đong gạo em dở
hơi quá phải không chị?
- Chuyện vặt ấy mà - Tôi gạt
đi - Thế đã đong gạo được chưa?
- Hôm trước nhờ các cô bác
xung quanh góp cho em hơn trăm bạc ăn tết. Em đã đong và
vẫn còn nguyên đây - Nó móc túi lôi ra hai tờ năm
mươi đồng, một tờ hai mươi đồng và mấy đồng bạc
lẻ.
- Chiều nay chị làm cơm cúng
ngồi ăn một mình buồn quá, định gọi em xuống nhà chơi
luôn, nhưng ngại em... - Tôi hất hàm cười với nó.
- Chị ở một mình thôi à?
- ừ - Tôi kể cho Nguyên nghe
qua hoàn cảnh của tôi. Từ lúc đó câu chuyện giữa
chúng tôi trở nên thoải mái hơn. Tôi bỗng thấy một
chú bé Nguyên khác hẳn, hoạt bát, vui vẻ. Cũng phải thôi,
cuộc sống có những nét giống nhau thì dễ đồng cảm
và hòa hợp với nhau. Tôi thiếu thốn tình cảm của người
mẹ từ bé nên rất hiểu sự mất mát ấy trong Nguyên.
Nhưng Nguyên khổ hơn tôi gấp vạn lần vì có mẹ mà như
không.
Tôi lấy các thứ mang theo từ
nhà để lên bàn. Nguyên hấp tấp chạy vào buồng lôi
ra hai chiếc bát con, một chiếc đĩa và một cái bát ô
tô. Nó phân bua:
- Rổ bát nhà em chỉ vậy
thôi!
Hà kể cho tôi nghe: một lần
bà hàng xóm cho nó mấy miếng thịt kho nó bày lên mâm
nhưng để đấy và chỉ ăn muối ớt, ngày hôm sau cũng
thế, đến ngày thứ ba mới ăn. Thấy tôi trầm ngâm nó
hỏi:
- Chị làm sao thế?
- à... không!
- Chị xem, em ăn tết cũng đầy
đủ các thứ đây này - Nó đứng dậy đi về phía buồng,
vén tấm ni lông, bên trong là chiếc bảng hình chữ nhật.
Nguyên kéo chiếc bảng ra giữa nhà, lấy cái ghế chặn
phía sau. Trên bảng vẽ lọ hoa đào, mứt tết, bánh chưng,
con gà ngậm bông hồng đỏ nằm trên đĩa... Toàn hương
vị ngày tết, Nguyên cười:
- Em vẽ đấy, đẹp chứ chị?
Giao thừa xong em sẽ kê ở chỗ kia, ai vào cũng thấy
ngay.
Tôi không cười được. Sống
mũi tôi cay xè như hít phải ớt bột. Tôi sực nhớ bó
hoa mua từ lúc nãy vẫn còn để trong túi. Thấy hoa
Nguyên chạy lại mừng rỡ:
- Loại hoa này em thích đấy.
Ðể em kiếm cái cắm. Chà, tết năm nay em xôm thật!
Nguyên chạy ra ngoài sân, lúc
quay vào mang theo ống bơ sữa bò đã gỉ. Nó đổ nước
vào đấy rồi đưa cho tôi. Tôi giơ chiếc ống bơ lên
ngắm nghía, còn đang ngần ngại thì Nguyên giục:
- Chị sợ nó xấu chứ gì?
Không lo, em đã có cách, chị cứ cắm vào.
Nguyên lấy hai tờ giấy xanh mầu
cẩm thạch dán liền lại. Loáng một cái nó đã gấp
xong hình chiếc lọ, chụp ra bên ngoài ống bơ. Tôi và
nó cũng lùi ra xa ngắm nghía. Tôi trầm trồ:
- Ðẹp thật! Hoa trắng nền
xanh trông rất nổi lại nhã.
Ðược khen, Nguyên cười gật
gù có vẻ khoái chí. Nó kể cho tôi nghe chuyện lớp học,
bạn bè như chưa bao giờ có người để nói chuyện.
Tôi sống lại thời học sinh với đủ trò nghịch ngợm,
khiến nhiều khi bố mẹ, thầy cô phải bực mình. Nỗi
buồn man mác ám ảnh tôi suốt cả ngày hôm qua biến đâu
mất. Ðang kể, chợt nhớ ra điều gì, Nguyên chạy vào
buồng, chui tuột xuống gầm giường lôi ra một khúc gỗ
dài, một đầu gắn chiếc ống bơ sữa bò trắng tinh,
phía trên có thanh sắt dài cong cong. Nguyên lấy tay phủi
bụi trên đó như sợ bị đau. Nó khoe:
- Em có cái này nữa cơ. Ðàn
bầu em tự làm lấy đấy.
Tôi tưởng mình mang đến niềm
vui cho Nguyên, không ngờ bị cuốn hút vào thế giới của
riêng nó. Hết cái lạ này đến cái lạ khác, vui có, cười
ra nước mắt có.
- Bây giờ em đàn cho chị nghe
nhé - Nó ghếch một đầu chiếc đàn lên bàn, còn đầu
kia để xuống đùi, tay mân mê cái cần cong cong nhìn
tôi lưỡng lự - chơi bài gì bây giờ... à, phải rồi!
Tiếng đàn rè đục. Tôi chẳng
hiểu Nguyên đang chơi bài gì nữa. Một mớ âm thanh
lùng bùng bên tai. Một hồi Nguyên ngẩng lên nhìn tôi:
- Chị có biết bài gì không?
- Chịu, em đánh đàn mà cứ
như đánh đố ấy.
Nó nhe răng cười đổ lỗi tại
cái đàn tự tạo để lâu ngày không đánh nên dây bị
gỉ.
- Bài hát này em thích lắm mà
không biết đầu đề. Như thế này... - Nó e hèm một
cái rồi cất tiếng hát bằng cái giọng đang vỡ - Cầm
lá thiếp này lòng hướng vô Nam. Dù xa muôn trùng nhưng
tình em vẫn ngàn năm không mờ... Thôi em chẳng hát
nữa kẻo chị lại cười. Chị nghe đoạn này nhé, nghe
này... Tình tình tình gió bay. Nghe ra chưa?
Tôi rũ ra cười vì kiểu đánh
đàn của nó. Mặc tôi cười, Nguyên vừa đánh vừa minh
họa bằng lời hát. Hết bài nó hất hàm nhìn tôi:
- Nghe êm chứ chị?
Tôi cũng bắt chước điệu bộ
của nó hai tay xoa xoa vào nhau, gật gật đầu ra chiều tán
thưởng, nhưng rồi không nín được, tôi cười phá
lên, Nguyên ngất ngư cười theo.
Ðang vui, Nguyên chậm chạp đứng
dậy, dựng đàn vào góc nhà. Nhìn dáng điệu thẫn thờ,
buồn bã của nó, tôi hỏi khẽ:
- Em làm sao thế ?
- Chị có phải về trước
giao thừa không? - Nguyên vẫn đứng góc nhà hỏi chẳng
buồn quay mặt ra.
- Không, chị ở lại đón giao
thừa với em. Chị mang theo cả bánh pháo đây này.
- Thật không ? Chị ở lại
nhá? - Nó quay ngoắt lại, mắt sáng bừng, khiến tôi
không dám nhìn thẳng vào đấy - Thế mà em cứ tưởng...
Hóa ra nó buồn vì tưởng
tôi phải về. Nếu Nguyên bé lại một chút hoặc tôi
già thêm chục tuổi thì tôi sẽ ôm riết lấy nó vào
lòng. Nguyên mấp máy môi định nói câu gì đó nhưng lại
thôi, rồi bước nhanh đến bên tôi cuống quýt:
- Chị em mình phải dọn dẹp
qua nhà cửa để tý nữa còn đón giao thừa chứ. Chị
quét nhà và bày biện lại cho em, em ra đây một tý.
Không đợi tôi trả lời
Nguyên chạy vù ra cửa. Lúc quay về cầm theo túi kẹo.
Nguyên lấy tờ giấy trắng cắt thành hình hoa và để túi
kẹo lên đó.
- Hôm nay được phép chi vào
"ngân quỹ". Phải có gì khao chị chứ! Giao thừa
xong chị em mình sẽ phá cỗ.
Cỗ của Nguyên là mấy thứ
tôi mang đến, thêm túi kẹo nó vừa mua. Tôi bày tất cả
lên bàn, cạnh lọ hoa hồng.
Chỉ còn nửa tiếng nữa là
giao thừa. Nguyên tìm chiếc que để treo bánh pháo khi đốt.
Nó làm rất cẩn thận như chuẩn bị cho một việc trọng
đại sắp sửa diễn ra tại đây. Vừa làm, nó vừa nói
chuyện với tôi:
- Có mấy thằng bạn rủ em đến
nhà tụi nó đón giao thừa. Em chả thích thế, dù sao
mình cũng là người lạ.
"Thằng bé nghĩ gớm thật!"
- Tôi thầm nghĩ - những đứa trẻ như nó thường khôn
hơn lũ trẻ cùng tuổi, bởi sớm phải tự quyết định
mọi việc của bản thân. Tôi dù sao vẫn còn sự chăm sóc
của người cha. Tôi không biết mình sẽ ra sao nếu ba
tôi mất sớm hơn?
Lúc này tôi mới có dịp
nhìn kỹ khuôn mặt Nguyên. Phải nói là Nguyên đẹp
trai, khuôn mặt thon thả đôi mắt đen mở to được che
bởi hàng mi dài cong vút - một đôi mắt đặc con gái.
Nhìn hàng ria mờ đen phía trên môi cu cậu tôi bật cười.
Nguyên nhìn tôi ngạc nhiên:
- Chị cười gì thế ?
- à... Em làm khéo tay như con gái
ấy - Tôi nói lảng.
- Phải làm cho nó quen tay chứ.
Em còn biết khâu nữa cơ. Chị xem này - Nó giơ
lưng về phía tôi. Miếng vá bằng bàn tay ở giữa lưng
lộ rõ cả đường chỉ.
Tiếng chuông đồng hồ từ vô
tuyến ở các nhà xung quanh thong thả gõ từng tiếng.
Ðó đây đã râm ran tiếng hơi pháo. Nguyên nhìn tôi, hiểu
ý, tôi gật đầu.
- Em tắt đèn chị nhé. Ðể
xem ánh lửa từ những quả nổ trông đẹp hơn.
Nguyên xòe diêm châm lửa
đốt. Quả pháo cối đầu tiên nổ rất giòn. Mặc dù
đã chuẩn bị trước, tôi vẫn hơi bị giật mình
theo phản xạ tự nhiên. Ðợi quả pháo cuối cùng nổ
xong, tôi bảo Nguyên:
Năm nay chị em mình sẽ gặp nhiều cái
may, vì pháo nổ rất tốt.
Không thấy Nguyên trả lời,
tôi nhìn sang. Hai tay vịn vào song cửa sổ, mắt nhìn xa
vời vợi. Qua ánh đèn từ ngoài đường hắt vào tôi thấy
ở khóe mắt nó hai giọt lệ lớn sắp sửa lăn xuống má.
Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Cũng giờ này năm ngoái
tôi còn đón giao thừa với ba ở bệnh viện. Năm nay ba
bỏ con một mình. Ba ơi...
- Chị! Nguyên quay sang tôi giọng
nghẹn ngào: - Chị... Chị là chị gái của em nhé !
Tôi nhìn nó cười trong khi hai
hàng nước mắt kéo vệt trên hai má.
- Nguyên! Chị sẽ là chị của em
mãi mãi. Nếu ba còn sống chắc ba sẽ rất thích vì có
thêm một cậu con trai đấy!
Nguyên cười rồi đưa
tay lên quệt má. Tôi chẳng buồn lau mặt nữa. Chúng
tôi đứng như vậy nhìn ra phía xa rực ánh đèn các mầu.
Xung quanh là tiếng pháo nổ khi xa khi gần, liên tục. Một
năm mới bắt đầu...
Mẹ tôi mất năm tôi lên tám
tuổi - cái tuổi bắt đầu cảm nhận được tình
yêu của người mẹ đối với mình một cách có suy nghĩ.
Tôi vẫn còn nhớ mấy hôm sau khi mẹ mất, ba không khóc
nhưng thường nhìn tôi thở dài. Lúc ấy trong ba có vẻ
suy nghĩ ghê lắm. Một lần đi học về tôi khoe với ba
là cái Thụy được mẹ nó may cho một cái váy rất đẹp.
Mấy hôm sau, thấy ba sưu tầm ở đâu rất nhiều tranh
ảnh những đứa bé mặc váy hỏi tôi thích kiểu nào, rồi
ba mang vải đến nhà người quen nhờ họ hướng dẫn cắt
và tự tay ba khâu cho tôi. Từ đó đến khi tôi học hết
cấp ba, quần áo của tôi đều do ba may cho. Tốt nghiệp
Ðại học, ba giục tôi lấy chồng, nhưng tôi bảo chưa
tìm được người tâm đầu ý hợp, ba đùa yêu: thế
tâm với ý của con thế nào để ba chọn giùm. Thực ra
trong thâm tâm, tôi rất sợ lấy chồng mà phải về nhà
chồng, để ba không ai chăm sóc. Hơn nữa chẳng may phải
người không tốt, họ đối xử tệ bạc với ba thì
tôi sẽ ân hận suốt đời. Năm ngoái ba mất vì bệnh
ung thư phổi, tôi đã phải trải qua giờ phút kinh hoàng
khi nghĩ rằng chỉ có một mình ở trên đời.
Trước đây và bây giờ tôi rất
nhiều bạn bè, chúng thường xuyên đến chơi với tôi,
an ủi tôi làm tôi đỡ đi phần nào cảnh cô đơn. Bọn
tôi thường tổ chức các buổi nói chuyện, vui chơi, ăn
uống ngay tại nhà tôi. Lúc ấy, tôi thấy rất vui vẻ.
Khi mọi người ra về, mình tôi đối diện với bốn bức
tường của căn phòng thì sự trống trải lại xâm chiếm
tôi.
Cuộc sống của tôi từ ngày
có Nguyên khác hẳn. Chúng tôi đến với nhau tự nhiên
như sinh ra trên đời này là để có nhau.
Tôi cảm thấy thời gian nhàn rỗi của mình có ích hơn
khi phải bận rộn, lo toan cho cả người
khác. Mặc dù tôi nói bã bọt mép, Nguyên vẫn không chịu
rời bỏ nếp sống cũ: sáng đi học, chiều đi học, tối
gánh nước thuê cho mấy hàng phở ở đầu phố để kiếm
sống. Quen Nguyên một thời gian tôi mới biết, hơn hai
năm nay nó không hề nhận một đồng nào của bố mẹ
nó gửi về cho. Nếu họ đến thăm thì nó tìm cách lẩn
trốn. Hàng xóm láng giềng khuyên nó không nên như thế
Nguyên chẳng nói gì nhưng lần sau vẫn lặp lại như
cũ. Người ta đã bắt gặp có lần Nguyên đứng
ở cửa sổ nhìn theo bóng mẹ nó đi chiếc Diaman cho đến
khi khuất hẳn. Ðôi mắt vốn đã buồn lại buồn hơn.
Tiếp xúc với Nguyên tôi thấy rằng thằng bé có một
nghị lực ghê gớm mà tôi không có được. Sống trong môi
trường như vậy mà Nguyên vẫn giữ được mình thật
là hiếm!
Học hết lớp chín,
Nguyên nói với tôi là xin đi làm. Tôi khuyên thế nào
nó vẫn một mực: em không thể sống dựa vào lòng tốt
của người khác mãi được. Có điều kiện em sẽ học
sau, em hứa với chị như vậy!
Sau khi cân nhắc khá lâu, tôi
vẫn kiếm được việc làm cho Nguyên theo nguyện vọng của
nó. Công việc chủ yếu là phụ việc cho các
họa sĩ trong một xưởng họa. Chỗ đó tuy lương
ít hơn mấy nơi khác mà tôi đã hỏi, nhưng yên tâm hơn
vì Nguyên học hỏi được nhiều điều ở bậc đàn anh
cho cái nghề nghiệp mà nó mơ ước đã chớm bước vào.
Hôm lĩnh tháng lương đầu tiên, Nguyên phóng xe thẳng một
mạch về nhà tôi, mồ hôi nhễ nhại, một tay thu ra
phía sau, khuôn mặt sáng bừng. Chưa khi nào tôi thấy nó
tươi tỉnh như thế:
- Hôm nay em được lĩnh
lương. Thế là em đã làm ra tiền rồi nhé. Em mua cho chị
cái này, đoán xem, cái mà chị vẫn thích ấy.
Thấy tôi đoán sai, nó sốt ruột
giơ bắp ngô nướng ra, dứ dứ rồi rụt nhanh về.
- Có thế mà không đoán ra.
- Ôi! Ðưa cho chị đi Nguyên,
chị thèm chảy nước miếng ra đây này - Tôi kêu toáng
lên.
Nguyên rối rít kể chuyện
các anh chị ở cơ quan đã chúc mừng nó ra sao, có anh
còn tặng nó một chiếc túi để đựng đồ đi làm. Với
nó, đó là một sự kiện trọng đại trong đời.
- Em mới đi làm một tháng mà
thấy khỏe hẳn ra. Chị xem này - Nó đứng dậy vươn
vai, hít căng lồng ngực hãy còn phẳng lỳ của đứa trẻ
đang lớn. Trong thâm tâm, tôi luôn mơ ước Nguyên sẽ trở
thành một họa sĩ nổi tiếng. Sự mong mỏi ấy nhiều
khi trở thành niềm tin chắc chắn trong tôi, bởi Nguyên
rất có năng khiếu hội họa và giàu nghị lực.
Chị em quý nhau như vậy nhưng
bất cứ sự giúp đỡ nào của tôi hơi thiếu tế nhị
một chút thì Nguyên khéo léo từ chối ngay. Tôi gọi đùa
nó là "mẹ chồng" bởi cái tính khe khắt ấy.
Nó cười rồi nói với giọng buồn buồn: " ở hoàn
cảnh em dễ bị người ta nghĩ xấu. Anh em đã vậy, có
người tưởng em rồi cũng thế". Cho đến bây giờ
tôi vẫn chưa hiểu hết lòng tự trọng của những đứa
trẻ như Nguyên lớn đến mức nào?
Một lần, tôi và Nguyên đi chợ,
nó xách làn lẽo đẽo đi sau. Gặp một thanh niên mù ăn
xin, tôi để vào mê nón của anh ta đồng bạc. Lúc ngẩng
lên bắt gặp ánh mắt khinh bỉ và cười mỉa mai của
Nguyên. Ra khỏi cổng chợ, nó bảo:
- Sao chị lại cho anh ta? Anh ta
vẫn còn khỏe mạnh kia mà!
- Ai muốn vậy đâu em. Em
không thấy anh ta mù sao?
- Anh ta mù thì còn chân tay.
Thiếu gì việc dành cho người mù, việc phải đem khuyết
tật của mình để cầu xin của bố thí của người ta.
Thà chết đói còn hơn!
Nguyên nói cũng có lý, nhưng
nghe cái giọng lạnh lùng ấy tôi không thể chịu được.
Tôi bực bội bảo:
- Em đừng tàn nhẫn như thế.
Các cụ đã bảo "giàu hai con mắt khó đôi bàn
tay" đó sao? Nghiêm khắc với mình nhưng phải rộng
lượng với người khác chứ!
Suốt dọc đường về, tôi
và Nguyên không tranh luận gì thêm. Có lẽ nào nó lạnh
lùng với đau khổ của người khác đến thế được
chăng? Hay nó bị mất mát nhiều trong tình cảm đến mức
chai sạn nên khó rung động đến nỗi đau của người
khác? Nguyên lặng lẽ đi bên tôi, có thể nó liên tưởng
đến chuyện của nó. Ðược, càng hay!
Cuộc sống của chị em tôi
êm ả trôi đi. Từ ngày Nguyên đi làm, tôi bắt nó mỗi
tháng phải dành mười đồng gửi tiết kiệm, nói đùa
là để cưới vợ. Nó xấu hổ nói lảng: "Nếu thế
em chẳng để dành nữa". ở một mình, nó lôi bạn
bè về nhà bày bừa khiếp lên được. Tranh vẽ treo lộn
xộn khắp tường, bột mầu rơi loang lổ trên nền nhà,
chỗ cái ấm, chỗ cái chén. Tuần nào tôi cũng phải lên
dọn dẹp hộ nó nhưng chỉ ngày hôm sau lại đâu vào đấy.
Tôi, Nguyên và bạn bè của nó thường tổ chức những
chuyến chơi xa vào ngày thứ bảy, chủ nhật. Tụi nó
mang theo đồ nghề, tới nơi nào có phong cảnh đẹp là
mải mê ngồi vẽ và phân công tôi lo bữa ăn. Biết công
việc của tôi hay cần đến sách vở, Nguyên rất chịu
khó đi lùng các hiệu sách tìm mua cho tôi những cuốn
truyện, sách nghiên cứu vừa in. Không hiểu học được
ở đâu, nó viết một câu to tướng vào tủ sách của
tôi: "Kẻ nào cho mượn sách là kẻ ngu. Kẻ nào giả
sách lại còn ngu hơn". Tôi thuyết phục mãi nó mới
chịu bỏ đi...
Thứ bảy, tôi về sớm hơn một
chút, đi mua mấy lạng thịt làm bún chả và gọi dây
nói báo cho Nguyên về ăn cơm. Ðợi đến bảy giờ tối,
vẫn chưa thấy nó đâu, tôi sốt ruột đi ra, đi vào. Gần
tám giờ, Nguyên mới lò dò về đến cửa đã liến thoắng
không kịp để tôi hỏi han câu nào:
- Chị chờ em lâu lắm phải
không? Em có chút việc ở cơ quan. Em đói điên lên đây
này. Hôm nay em sẽ ăn hết những thứ chị làm cho mà
xem.
- Thì rửa mặt đi đã nào!
Ngồi ăn, Nguyên kể cho tôi
nghe hôm qua ở cơ quan nó có đợt khám nghĩa vụ quân sự,
trúng tuyển năm người, xưởng họa của nó cũng có một
anh đi đợt này.
- à quên mất, em được cơ
quan cho đi học đấy.
Nó móc túi lấy tờ giấy
đưa tôi xem. Ðó là công văn quyết định của Nguyên
nghỉ công tác từ tháng chín để ôn thi vào trường Cao
đẳng mỹ thuật. Nguyên đã có bằng cấp III bổ túc văn
hóa. Gần cuối bữa ăn, Nguyên bảo tôi:
- Chị ơi, em... em... - Nó bỏ
lửng không nói tiếp. Tôi bỏ bát bún đang ăn dở nhìn
nó khó hiểu. Thảo nào đang lúc nói chuyện, tôi có cảm
giác như nó định nói chuyện gì đó nhưng còn ngần ngại.
- Chị tính xem em nên đi học
hay đi bộ đội? - Nó nhìn tôi không chớp mắt.
Thật khó trả lời. Lâu nay
tôi vẫn là người chị khuyên bảo lời hay lẽ phải.
Bây giờ sẽ phải nói với nó ra sao? Ði bộ đội hay
đi học? Nếu suy bì hơn thiệt thì đi học sẽ tốt hơn
nhiều. Nguyên sẽ có cả một tương lai mà tôi hằng
mong mỏi cho nó. Nhưng khi nó đã cân nhắc giữa việc
đi học và đi bộ đội thì có nghĩa nó nhận thức được
vai trò của người thanh niên và sẵn sàng chấp nhận những
khó khăn, vất vả của người lính. Tôi nhìn Nguyên và
bỗng thấy nó già dặn hẳn lên. ừ, nó mười tám tuổi
rồi còn gì! Tôi biết, Nguyên đã quyết định, chỉ vì
tôn trọng tôi nên mới hỏi như vậy.
- Cái đó tùy em - Tôi nói chậm
rãi, mắt không rời vầng trán thông minh được phủ bởi
lọn tóc đen phía trước của Nguyên - Em đã lớn, chị
tin em sẽ có quyết định đúng đắn. Nhớ báo sớm cho
chị biết ngày đi.
- Ðấy em biết mà, chị bao giờ
cũng nói điều phải... - Nó ngập ngừng rồi nói rất
nhanh: - Hơn nữa em ra đi để bù lại phần nào lỗi lầm
của anh em, để người ta hiểu những đứa như em hơn.
Nguyên cầm đĩa lên và trút hết
chả còn lại vào bát của tôi:
- Chị ăn đi, em gắp cho chị
chẳng được bao lâu nữa. Hôm nay em đã khám sức khỏe,
loại A1 nhá. Chị cứ chê em còm nữa đi.
¡n xong, Nguyên dành việc rửa
bát. Trước khi bê mâm đi, nó còn lấy khăn mặt ướt và
cốc nước đưa cho tôi.
Thế là Nguyên đi bộ đội đã
được sáu tháng. Vắng Nguyên tôi thấy cửa nhà vắng vẻ
hẳn. Mỗi tháng Nguyên thường viết cho tôi ba bốn lá
thư. Chẳng có chuyện gì xảy ra mà nó không kể, nào
là bà chủ nhà rất thương hay để dành cho củ khoai, củ
sắn mỗi khi đi tập về; nào là các trò nghịch ngợm của
các cậu lính trẻ... Nó viết: "... Ngoài giờ luyện
tập em vẫn tranh thủ vẽ thêm, nghỉ lâu sợ cứng tay mất.
Ðược nhiều nhiều em sẽ gửi về cho chị xem, góp ý
và giữ hộ em. Em rất khỏe. Tăng ki-lô so với hồi ở
nhà, da đen hơn trông như anh nông dân ấy, chắc chị
không nhận ra mất". Thư tôi nhận được cách
đây hai tuần Nguyên báo đã đi lên biên giới. Trước
đây, tôi chưa khi nào hỏi mà cũng chẳng nghe thấy Nguyên
nhắc đến bố mẹ. Ðột nhiên hai hôm trước ngày lên
đường, Nguyên hỏi tôi:
- Chị thấy em có nên đến chào
bố mẹ em không?
Hóa ra trong tâm hồn Nguyên vẫn
còn một góc không nhỏ dành cho những người đã sinh ra
rồi bỏ rơi mà tôi cứ tưởng không bao giờ Nguyên tha
thứ cho họ. Hồi còn bé chỉ là sự giận dỗi, tức tối
của con trẻ không được người lớn vuốt ve âu yếm.
Nhưng khi lớn lên hiểu hết mọi việc diễn ra xung
quanh, một mặt nó phán xét, một mặt thèm khát tình
yêu của bố mẹ. Bằng cách có thể xa, nhưng ranh giới
giữa tình yêu và sự căm thù thực là mỏng manh, Nguyên
không căm thù bố mẹ nó, nhưng tình yêu ngày một cạn
đi khiến người nó khô cằn. Chính cái đó mới là điều
đáng sợ. Tôi rất mừng khi nghe Nguyên nói.
Tối hôm ấy, tôi chuẩn bị
cho nó quần áo đẹp nhất và giục đi. Khi Nguyên về,
tôi không hỏi chuyện nhưng nhìn đôi mắt nó tôi đoán
chuyện gì đã xảy ra. Ðôi mắt đẹp ấy buồn hơn
nhưng bớt sự lạnh lùng, chua chát. Bây giờ tôi mới chợt
hiểu sức mạnh ghê gớm của tình yêu mà tạo hóa đã
ban cho con người!
Một năm nữa lại trôi qua. Một
năm Nguyên làm anh bộ đội.
Tối nay cũng như mọi tối khác.
Viết xong bài báo để ngày mai nộp cho phòng, tôi lôi
len ra đan. Ðứa bạn đi công tác ở Ðức về cho nửa
cân len mầu xám, tôi dành để đan cho Nguyên. Mầu này rất
hợp với đàn ông, hơn nữa ở biên giới mùa đông rất
lạnh. Nguyên thường viết thư kể cho tôi nghe về bông
tuyết đầu mùa phủ long lanh trên tán lá rừng... Ðan
thì đan chứ biết làm thế nào gửi lên cho Nguyên được.
Khoảng mười giờ đang định dọn dẹp giường đi ngủ
thì có tiếng gõ cửa. Ai đến chơi khuya thế nhỉ? Hay là
Nguyên về? Tôi mừng rỡ đứng dậy, thì cánh cửa hé mở.
Trước mắt tôi là anh bộ đội trạc ba mươi tuổi, quần
áo bám đầy bụi đất. Chắc anh ta vừa đi qua chặng
đường dài khá vất vả. Thấy vẻ ngạc nhiên, bối rối
của tôi, anh ta nói luôn:
- Tôi là Trung, cùng đơn vị với
Nguyên.
- Thế ạ! Mời anh vào chơi.
Anh vừa trên đó về?
Tôi hấp tấp đi pha nước, hỏi
chuyện rối rít khiến khách không nói được câu nào. Bất
giác, tôi quay lại nhìn Trung. Anh ta quay mặt đi khi bắt
gặp cái nhìn của tôi. Tôi linh cảm có chuyện chẳng
lành. Trung vẫn ngồi mân mê cái mũ mềm trong tay. Không
chịu được không khí căng thẳng ấy, tôi run run hỏi:
- Có chuyện gì xảy ra với
Nguyên phải không anh?
- Vâng... Nguyên... hy sinh.
Anh ấy nói gì thế nhỉ? Tôi
thấy mình đang ngồi trên con thuyền trôi bồng bềnh,
các bức tường nhà chao đi, chao lại. Tiếng Trung rơi lõm
bõm vào tai tôi như tiếng người thở đứt quãng...
Chúng tôi đi trinh sát thì lọt vào ổ phục kích của địch...
Gần hết đạn mà địch vẫn tràn lên rất đông... Anh
Trung phải quay lại báo cho đơn vị biết thôi...
Không!... Nghe em, anh còn bé Sơn, đừng để bé Sơn phải
mất bố... Tôi, hạ sỹ Nguyễn Thành Nguyên ra lệnh cho
binh nhất Nguyễn Văn Trung phải chấp hành mệnh lệnh...
Khi đơn vị tôi diệt xong ổ phục kích của địch, đến
nơi thì Nguyên đã tắt thở, trên người có chín vết
đạn bắn vào... Bóng đèn giữa nhà tỏa ra quầng xanh,
đỏ, vàng giống như ánh đèn các mầu rọi vào chỗ chị
em mình đứng đón giao thừa hôm nào, đúng không
Nguyên?... Có phải Nguyên đấy không?... Ðừng buồn chị
nhé, đi bộ đội về em sẽ học ra trò cho mà xem... Em sẽ
vẽ tặng chị bức tranh to đúng bằng người chị hôm cưới...
Mặc thử áo len này đi, chị đan cho em đấy... Ôi, em
không giơ tay lên được; đau quá, chúng nó bắn em.
Chúng tưởng thế là chia rẽ được chị em mình chắc...
Ai để hòn than lên ngực tôi
thế này? Trời ơi, bức bối quá! Cả chiếc khăn quàng
cổ này nữa, vứt đi! Ðột nhiên người tôi run bắn
lên như chạm phải lửa, nước mắt cứ thế chảy ra không
sao ngăn được. Hãy chỉ đứa nào bắn em, Nguyên, chị
sẽ trả thù cho em. Ðừng bỏ chị, em ơi...!
Không biết tôi sẽ ngồi khóc
bao lâu nếu anh Trung không kéo tôi trở về với thực tại.
- Chị hãy bình tĩnh lại. Nguyên
dặn tôi đồ đạc của cậu ấy đưa về cho chị.
Ðây...
Trung đưa cho tôi chiếc ba lô
đã bạc mầu đang để dưới chân bàn. Anh xin phép ra về
vì đã khuya, trước khi ra cửa anh còn quay lại bảo
tôi:
- Chị đừng tỏ ra mềm yếu,
Nguyên không thích thế đâu.
Câu nói ấy như một liều thuốc
làm ngưng đọng mọi cảm xúc, mọi suy nghĩ trong tôi: ngưng
đọng cơn hoảng loạn đang xâm chiếm tôi. Tôi ngồi lần
giở ba lô của Nguyên. Có hai bộ áo quần bộ đội bạc
mầu. Còn một chiếc áo bộ đội nữ - có lẽ là chiếc
áo mà Nguyên đã viết thư kể cho tôi: "Em lấy chiếc
áo mới phát nhờ cô cấp dưỡng cắt và tự tay khây lấy
cho chị. Chẳng hiểu có vừa với người chị không?".
Một tập tranh vẽ cuộn tròn rất kỹ, xếp giữa mấy bộ
áo quần. Và cuối cùng là chiếc hộp sắt nhỏ, dẹt,
hình chữ nhật. Tôi mở ra, bên trong có ba bức ảnh đã
ngả màu vàng. Một bức ảnh người đàn ông, một bức
ảnh người phụ nữ, đằng sau là chữ Nguyên viết hồi
còn bé "Ðây là bố", "Ðây là mẹ".
Còn bức ảnh thứ ba, đứa bé đang lẫy đằng sau có
ghi dòng chữ: "... Mặt trời bé con của mẹ".
Lần giở được những thứ
ấy ra, chân tay tôi mỏi rã rời như vừa phải làm một
việc quá nặng. Không buồn mắc màn, tôi với tay tắt
đèn rồi nằm vật ra giường, với chiếc áo len đan giở
úp lên mặt...
* * *
Bạn bè, người quen hỏi thăm
tôi về Nguyên, thì hoặc là tôi né tránh câu trả lời,
hoặc là tôi nói thật điềm tĩnh: "Nguyên hy sinh rồi!".
Ðó là điều không thể có trong tôi trước đây, một
người không biết kiềm giữ niềm vui hay nỗi buồn
đau. Sao lại thế? - Tôi không trả lời rành rẽ được,
chỉ biết đó là ảnh hưởng của Nguyên đối với tôi.
Em kiên quyết và bình tĩnh trong khó khăn, vui buồn của
cuộc sống ngay từ những ngày em chưa làm người lớn.
Và , chính vì vậy em sống có trách nhiệm biết bao!
Tôi đã tìm đưa cho bố mẹ
Nguyên ảnh chân dung họ thời trẻ. Họ đã khóc. Người
đàn ông gục mặt vào song cửa, lặng lẽ lau mắt, còn
người phụ nữ thì òa lên. Cả hai nơi tôi không ngồi
lại lâu, chẳng phải vì tôi ghét bỏ họ, trái lại
tôi còn thương họ nữa, nhưng quả thật tôi không thể
nói chuyện với họ được. Còn bức ảnh đứa trẻ
đang tập lẫy thì tôi giữ, tôi thấy mình có quyền
làm việc ấy. Giữ bức ảnh đó, là giữ mãi hình ảnh
của Nguyên khi buồn bã, khi cười đùa... là giữ mãi một
cuộc đời cho cuộc đời mình. Con người đi qua, ánh
sáng còn để lại mãi, phải vậy không? Và, em là mặt
trời bé con của chị, phải vậy không, Nguyên?
Thùy Linh
Tháng 8-1993