Ông bà Thung vui vẻ vào bữa. Lâu nay,
theo sáng kiến của ông bữa nào cũng có món
"ghém", ghém ở đây là những chuyện vui làm cho
bữa ăn ngon. Vốn là giáo viên văn, người đẫy đà,
ưa ướt át, nên chuyện của bà khá đậm. Ông thường
khà khà với đám tướng tá trong hội cựu chiến binh rằng
ông hơn đứt các cậu khoản ấy.
Bà vừa kể ông nghe cái chuyện cười vãi
nước mắt. Cậu Mãng ở quê ra chợ tỉnh gặp một ả...
Nó ngọt như đường. Nó thơm lựng. Nó nhúng nhính. Nó
điệu đà. Nó thế nào nữa mà cậu è vai gánh cho nó
bao nhiêu là hàng hóa. Ðến quãng vắng, nó xin hàng, cám
ơn. Khổ! Nó cứ liu riu như sáo, va động vào cậu
để... trả công. Cậu thẹn điếng. Về nhà nói với
bà, còn ngốt lên vỗ đùi đen đét rằng tiếc.
- Rõ thiệt! Mình có thấy quê mùa ra tỉnh
là cứ thiệt...!
Vị trung tá già ngậm ngùi.
- Thiệt đứt chứ lị! Nhưng rồi nghĩ mà
thương cho nó! Mãng, con đô Vãng; khỏe nhất vùng. Ông
khăn gói đi khắp nơi, vật đổ trăm miền thiên hạ.
Vào vật, ông uống một lon nước cua rồi bùng lên như
một con hổ. Năm vật ở Kẻ Lý, đám không minh, tức
máu, ông bê cả phản quan viên ném vèo ra ngoài sới.
Ông bị họ thù, đâm lòi ruột... Mãng có cái dáng của
cha. Ðen sì và cao ngộc, nghịch ngợm bông lơn nhưng ít
học. Vợ sảy thai, nửa đêm hồng hộc cõng chạy xuống
trạm xã. Vợ chết, sống độc thân...
- Xóm mình còn con Bột... đến tội! Bà
gắp miếng cá kho dọc mùng đắp vào bát cho ông.
Ông lặng thinh. Bà nhâm nhỉ:
- Hôm qua nó chỉ vào trán tôi: "Nhà
bà có đức mà chưa có hậu!"...
- Vậy là nó đã nói động đến nhà ta.
- Ông nhỏ nhẻ nhai miếng cơm.
- Thế còn khá! ừ, nói vậy là còn
khá...
Ðêm ấy, ông không ngủ được. Tầm quá
nửa đêm, ông ra khu vườn. Thói quen của ông trong những
lúc buồn thường ra vườn ngồi cho tĩnh tâm. Vượt qua
những khoảng trống lộng lẫy ánh trăng, ông đến bên
phiến đá đặt dưới gốc một cây nhãn. Trước đây
phiến đá hướng thẳng ra ao để ông hưởng chút mát
lành của hơi nước. Bây giờ, cái ao mang nỗi đau rỉ máu
trong lòng ông. Ông hướng thẳng phiến đá về phía vườn
nhà cái Bột. Cái vườn hoang ấy thênh thang và rách rưới,
vui mắt một chút là những cây bạch đàn. ồ! Lâu nay,
ông vẫn ngắm những thân cây ấy, sao mà nó đẹp! Nó
ngời sáng như một tia sữa vọt từ lòng đất vào đêm
đen. Như cái đêm nay thì nó vươn trắng, mịn nõn tựa
da thịt người... Cây đó mà người đâu? Ông Năm Hạng,
bố cái Bột trồng nên hàng cây đó... Con người ấy lùn
dính đất, lừ lừ và đen trũi. Ông đã lấy những cây
bạch đàn ở vườn ươm hợp tác mang về trồng ở vườn
nhà mình. Chủ nhiệm sỉ mắng thậm tệ và tuyên bố đó
là tài sản chung, khi nào cây lớn, hợp tác hạ xuống
dùng. Uất quá, lão già ốm mà chết.
Bố chết, con bé không còn biết nương tựa
vào ai. Mẹ nó như một quả sung rụng, nay ốm, mai đau.
Nó đành bỏ cái quyết tâm vào đại học nông nghiệp.
May mắn, nó được hợp tác ưu ái đưa vào chân kế
toán phụ. Nó hăng sổi, tính toán nhanh, làm giỏi. Người
ta có ý bồi dưỡng nó vào chân kế cận. Trong tổ tài
vụ hợp tác, có một người khá hào hiệp. Anh ta trắng
trẻo, điển trai nếu không có cái chân thọt bắt anh vừa
đi vừa "chấm phẩy" xuống đất...
Anh chàng ba con lén vợ, yêu vụng dấu thầm
cô kế toán phụ. Bột được anh quan tâm mọi mặt. Cuối
cùng thì cô gái hai mươi tuổi đổi một đêm cho gã
"chấm phẩy" để được một mảnh vải pho. Hợp
tác đùng đùng đổ bễ do một vụ tham nhũng. Chủ nhiệm
lao đao. Kế toán trưởng lộ tẩy về kinh tế, Bột chửa
hoang. Cô bị đe dọa nghiêm trọng, bị phạt đền khá nặng
nếu không bảo vệ uy tín cho ban quản lý. Và thế là Bột
rời hợp tác với một tấm thân ô uế, chịu mang tiếng
là một con đĩ nơi đầu đình xó chợ... Mọi việc
đâu lại vào đấy. Ðoàn thanh tra về chỉ là để trấn
an dư luận. Chủ nhiệm vẫn vững vàng.
Gã "chấm phẩy" điển trai vẫn
cứ vênh vang lên kính gọng vàng chấm phẩy trên mặt
đường đầy rác rưởi...
Cho đến một đêm, ồ cái đêm cũng
trăng sáng như thế này đây. Dạo ấy trung tá Thung vừa
chấm dứt cuộc đời binh nghiệp về quê. Ông ngồi thả
câu bên cầu ao sau nhà. Một tiếng hét rợn gáy làm ông
sửng sốt. Tiếng lịch huỵch chạy đuổi bên vườn
ông Năm Hạng. Hai bóng đen túm được nhau giằng co. Ðó
là mẹ con bà Năm. Bà rít lên, bổ soài néo con lại. Ðứa
con gái vọt lên. Mỗi lần bà túm được nó lại bị
nó vằng cho ngã khuỵu. Cuối cùng thì đứa con gái lao
như một mũi tên đến rệ ao. Một tiếng "tõm"
ghê rợn! Bà già bò ra mép nước, chới với đôi tay về
phía quầng sáng đang vỡ ra lan rộng.
- Ôi con ơi là con ơi! Thôi thế là mang tội
với trời... Ðứa con gái xốc bà già lên trong tiếng nấc.
- Con xin mẹ! Ðó là đứa con của con
nhưng lại là giọt máu của một thằng khốn nạn nhất
trần đời này!...
Hai mẹ con người khốn khổ đã về rồi,
trung tá Thung còn đứng lặng đầu ủ rũ. Ông cứ nhìn
trân trân vào cái khoảng sáng lạnh ở một góc ao. Ở
đấy vừa chôn một con người... Trở về phòng ngủ,
ông lảo đảo nằm vật xuống. Ông không thể nói nỗi
kinh hoàng này cho bà biết. Nằm một lúc lâu, ông hốt
hoảng chạy ra ao. Liệu còn cứu sống được nó không.
Ðó, cái khoảng nước sáng như một miếng thủy tinh. Cái
ao là một cỗ quan tài, miếng thủy tinh đậy nắp. Ông
thấy bức bối, khổ đau. Làm sao lúc ấy, ông không lội
ào xuống? Ðã đành rằng vết thương làm một khúc xương
ống của ông bị dò không bao giờ lội nước được nữa,
nhưng ông đã làm ngơ trước một tai nạn! Tự nhiên
ông thấy mình tàn nhẫn.
Sáng ấy, bà đi chợ. Ông gọi thằng Thủy.
Nó đang leo cây ổi. Nghe tiếng ông ở mé ao, nó nhảy phốc
xuống. Ông chỉ tay xuống một góc ao, nơi gần một bè
bương ngâm:
- Con xuống đó mò thử xem nếu thấy một
vật gì cũng mang lên cho bố!
Ông vừa dứt lời thì thằng bé đã lao
xuống như một con nhái. Nó lặn ngụp, mò mẫm rồi nhô
lên vuốt mặt, lau láu:
- Bố ạ! Rõ con chạm vào cái gì trơn
trơn choài vào trong bè!
Ông chưa kịp nói gì thì thằng bé đã tụt
xuống. Và vĩnh viễn nó xuống thủy cung, không bao giờ
trở về với ông bà nữa! Thằng Thủy - đứa con duy nhất
của ông, lận đận mãi mới có được nó, mắc vào giữa
bè bương. Cái láu táu, dại dột trẻ thơ của nó đã
làm ông gây nên một tội ác cuối đời. Ông muốn vớt
để chôn đứa bé sơ sinh tội nghiệp kia thì lại giết
luôn con mình. Nỗi đau của ông ngày càng tấy lên da diết
cùng với nỗi đau người hàng xóm.
Bà Năm Hạng ốm liệt. Bột phải bán cả
cái xe đạp rách chạy thuốc cho mẹ, rồi nó phải lặn
xuống những thùng sâu đồng vắng mò ốc kiếm sống.
Nó mò ốc... chao ôi! Người đâu chả thấy, chỉ thấy
cái nón nổi lều bều... Ðược dịp, người ta bắt đầu
nói những chuyện rùng rợn, bao nhiêu là chuyện rùng rợn!
Gương nhỡn tiền ra đấy - người ta bình luận
- trời có mắt, trời quả báo cho mà biết. Loại cầm
thú còn biết thương con nữa là người. Con đĩ ấy mà
chết thì cứ phải leo cầu vồng cho chó ngao nó cắn
lòi ruột! Những tiếng rủa sả còn ác độc hơn những
mũi tên nhọn. Bây giờ nó mới thấy đau. Nó có tội
tình gì. ối trời ơi, đau đớn quá! Có ai giết người
như nó không? Trời ơi là trời, nó là người hay là quỷ
mà dám làm cái việc man rợ ấy? Sống làm gì nữa? Nào
nó muốn thế đâu? Nó chắp tay lạy thiên hạ trời đất
cứu sinh cho nó. Quả là nó oan. Nó cuống cuồng cào cấu.
Nỗi đau dồn nén đến cực độ. Liệu nó có làm người
được nữa không? Ðến khi đắp xong nấm mộ cho mẹ thì
Bột làm cả làng kinh dị. Nó đập cửa đùng đùng và
cười lên khanh khách. Nó múa, hát, giật tung cúc ngực,
xổ tóc, cười khóc, nhảy nhót uốn éo... Trời ơi! Nó
thành con điên mất rồi. Cả làng đổ ra đường xem con
Bột điên. Trẻ con ném đá, la hét. Các bà khoặm mặt lại.
Tụi thanh niên hô hố vỗ tay. Một con điên trẻ! Chao
ôi, một đứa con gái điên, tấm thân bà mụ nặn, đôi
chồi xuân tròn xoe trên ngực.
Trước con mắt nhớn nhác của mọi người,
nó giậm chân xuống đường mà hét:
- Ta là bà chúa cửa hang, bà hoàng cửa bể!
Kia kìa cái làng thối gốc trồi rễ, bán cả đình
chùa. Một vạn cái đầu lâu hoa cái nằm như ốc kia kìa.
Chỗ của các ngài làm việc! Ðâu? Chỗ nào?... Nó thét
lác. Nó lồng lộn như ngựa xuống cuối làng. Nó chỉ
vào ngôi chùa đổ nát còn có thập điện giữa trống
hoắc mà giẫy lên đành đạch: "Ðâu? Chỗ
nào?" "Chỗ các ngài làm việc?" Nó nói cứ
như rắn trong lỗ bò ra. Khiếp vía!... Cái sự âm dương
cách biệt, trời phật biết đâu, làm sao nó quái ra thế
này?
Từ hôm ấy, làng bắt đầu lâm vào một
không khí nghiêm trọng. Các cụ bàn tán. Nhiều người
được báo mộng. Bói ra khoa thấy. Việc vỡ lở..."
Một vạn cái đầu lâu hoa cái" là khu tập thể hóa
mồ mà. Còn chỗ các ngài làm việc thì chả phải nói.
Chùa Thượng trước đấy thờ cúng rầng rậc. Hợp tác
phá ra làm nhà kho. Ðức Phật, xiêm y, cờ quạt... xếp
đống, mối mọt hết. Khi có chủ trương chia ruộng khoán,
hợp tác co lại, kho tàng không còn nữa, ngôi chùa cổ bị
tàn phá mới lộ ra những vẻ thảm hại của nó...
Như một cơ may, chùa làng ráo riết được
lập lại. Chả xây kịp thì người ta đắp đất, trát
vách. Chưa có ngói, người ta lợp rạ. Hẵng dọn lấy
ba gian "mời các ngài về làm việc". Tượng
chưa có thì thuê đắp. Tượng thạch cao đắp nhanh lắm.
Con cháu lí lém đi xin tượng, có khi còn bê trộm, đánh
cắp tượng làng khác! Bát hương cũng tân tiến; bằng
nhựa, bằng... cả một cái mũ cối to tổ bố đặt giữa
tòa sen!
Vậy mà ngày khánh thành, tế lễ xập
xèng cũng rộn rã lắm. Các già lụ khụ lên những chiếc
áo dài từ tám đời meo mốc. Họ quỳ lậy, khấn khứa
cầu cho phúc lai, tai tống, cầu cho con của thì tươi,
con người thì tốt, cầu cho... Choảng!... Một tiếng đập
dữ dội. Các cụ giật mình ngơ ngác. Con điên! Con điên.
Nó vừa ném cái đĩa hoa trên Tam Bảo... các cụ lộn ruột.
Không lẽ làm thế nào. Nó đã đứng giữa gian chùa mất
rồi. Mấy thằng chũm chọe, mấy lão đang gõ đập trống
thùm thùm cũng phải ngừng tay len lét nhìn vào hai quả
dâu chín sậm trên ngực nó. Mấy lão cung văn đang "ê
à ê a" cũng thu chân bó gối. Nó hét lên như xé vải
rồi tung cái khăn quay tít như vũ ba lê. Khổ nhất là
cái đít của nó cứ ninh ních quay vào cửa Tam Bảo. Một
lão chũm chọe lộn máu phát đánh bốp vào mông nó:
"Hỗn! Cứ quay đít vào cửa Phật!". Nó quay phắt
lại, nhảy vọt lên đậu vào cổ lão chũm chọe dìm xuống:
"Phật là ai? Phật là ta kia kìa!..." Ai dè vừa
lúc ấy cái mũ cối bốc hỏa, bát hương cháy đùng đùng.
Ba gian chùa lửa loa lóa, khói đặc kịt, tiếng hét của
con quỷ nửa người nửa phật làm ai nấy kinh dị. Có
người còn nửa tin nửa ngờ nhưng ai nấy sởn gai rợn
gáy. Phật về. Các ngài về...Vậy là những bàn tay, những
mái đầu hướng cả về phía con điên lạy lục, xoa
xuýt...
"Ngài" kẹp đầu cảnh cáo thằng
chũm chọe xong thì nhảy phắt vào chiếu cung văn nhắm mắt,
tay hoa, người đảo! Tiền lễ tiền cúng rào rào. Ai cũng
len vào tìm chút cơ may, thần phật giáng hạ cõi thế!...
Những mớ tiền xanh đỏ đã nổi cộm
trên một chiếc khay lớn, còn cứ chất vào. Ðám cung văn
bộ phận chiêng trống giúp lễ đảo mắt nhìn khay tiền...
Thế là giọng than vãn cầu lạy đồng thanh rộ lên như
một dàn hợp xướng.
- Tỏm cắc! Tỏm cắc! Thì thùm! Thì
thùm...
Trống nổi lên ròn rã hòa nhịp, khí thế
trang trọng, linh thiêng lắm. Ðám lễ cứ thế kéo cho đến
khuya, kéo dài ra mấy ngày liền. Tin Phật giáng thế lan
truyền. Cả một vùng ùa chảy. Tin còn truyền
"ngài" còn chữa được cả tứ chứng nan y. Bệnh
đâu, ngài chỉ ngón tay đấy là khỏi. Rồi thì xe máy
bâu về như ong vỡ tổ. Con nhang, đệ tử của ngài lúc
nhúc về với áo xanh áo đỏ, với khăn chầu áo ngự
tím vàng y như mối cánh ra mưa... ngài chỉ việc phán
và thu lễ, và ngài phán...
Ai đến, ngài cũng chỉ ngay vào mặt mà
đọc vanh vách, mấy bà vợ mấy ông có chức sắc cũng
thậm thụt tìm đến. Ngài chỉ vào mặt một bà đang vái
lia lịa và run như cầy sấy mà hét: "Con mẹ kia! Mau
mau lật đáy cái hòm lên, có ba chữ đại tự ở đấy.
Trả ta! Trả ta!... Của nhà mày toàn của bất lương! Lật
cái chân móng lên trả ta ba phiến gỗ lim...". Ngài
khai suất ra bao nhiêu là tội. Kẻ lỉm dỉm như lão thủ
kho, ngài cũng chỉ ra rằng lão lấy cái bát hương đúc
đồng to như cái thúng cái đại ở chùa bán cùng với
việc lão tuồn hàng chục tấn lúa ra chợ Ðại. Sự cứ
thế mà bùng lên. Ai bịt được miệng con điên? Ai bịt
được miệng quỷ thần? Ngài cứ sưng sưng mà nói ra.
Nói ra rả.... Chết nỗi. Hình như có cơ quan về ghi chép
những tiếng nói của ngài. Thôi thì sửa lễ hậu, nói
lời vàng kêu cầu riêng với ngài cho được kín nhẽ.
Thế là những kẻ có tội ở đâu cũng mò về để ngài
khai suất cho mà nghe mà sám hối. Họ đến lén lút như
những con chuột vào ban đêm, đặt lễ, tay chắp chân quỳ
nghe ngài phán. Bao nhiêu tội kinh người cứ được ngài
lôi ra tuồn tuột.
Kẻ lừa lọc, thoán đoạt. Kẻ ném bố
xuống ao. Kẻ nhốt mẹ vào chuồng trâu. Kẻ thông dâm.
Kẻ hiến vợ... Chao ôi, cái mớ tội phạm sao mà nhầy
nhụa đến thế? Những tiếng kêu, tiếng đòi kinh
thiên, động đến chín tầng mây!...
Ai mà biết được những tội tiềm tàng
ấy? Không có con mắt trời phật soi xét thì ai dám vạch
ra tất cả như vậy? Chưa ai xét xử nhưng dư luận đã
rùng rùng phán quyết. Ðã thế người ta phải bắt con
điên trừng trị nó. Phải diệt nó bằng tội phạm!
Nghe cái tin rùng rợn ấy, một đêm ông Thung vãng ra
chùa. Trời ơi! Ông chứng kiến... con điên? Trong tưởng
tượng của ông thì đó là một con bé xanh gầy bị tàn
phá bởi sự mông muội của trí não. Nhưng không. Nó
béo nục. Có phần rực rỡ. Sao thế này? Ông choáng mắt.
Ông vẫn thầm nghĩ: con bé ranh ma giả điên dại để
được dịp phun mọi tội lỗi ra ánh sáng. Bây giờ thì
ông quả quyết rằng; nó điên thật! Nó vơ đồ lễ ăn
như trâu bò nhai cỏ non. Nó cọ đôi bầu vú to vào tường
mà hét lên. Nó rùng mình nghiêng ngửa. Vồ cái nọ, vật
cái kia. Ôm chòa lấy cái cột nhà mà riết lấy, mà nghiến
răng lên kèn kẹt. Cả người nó sưng sỉa, chín mẫm. Mặt
vỡ ra bừng bừng, Mắt đổ chao chát. Nó nổ bùng lên từng
lúc rồi gục xuống chết rụi, rã rời kều cào man dại...
Ông Thung vẫn ngồi đó, xoay lưng về cái
ao rỉ máu, mắt không rời những thân cây bạch đàn
tròn nuột, trắng muốt, lay động những mảnh trăng. Bây
giờ, ông thấy rã rời thực sự. Ông vô tích sự giữa
cái làng rách nát. Ông không cứu nổi một con bé tội
tình...
Bỗng mắt ông mờ đi, sầm lại. Bầu trời
như một cái lẵng rung rinh, rung rinh... Ông không còn tin
ở mắt mình nữa. Một vòm bạch đàn rung khẽ. Dưới gốc
trắng ngời của nó, một tấm thân con gái. Cứ thế
cái tấm thân ghì néo, oằn oại lấy cây bạch đàn. Tấm
thân bươn lên, tụt xuống, lả lón, vặn vẹo với cái
thân cây cho đến khi cúc ngực bung ra, rồi thì cả tấm
thân lộ nguyên hình như một con rắn trắng quện chặt
lấy cái thân cây cũng trắng. Cái thân cây rung chuyển,
vòm lá rũ rã. Tấm thân vẫn néo lấy, vồ vập, cuống
quýt cho tới khi đôi tay rời ra, tụt xuống nhũn lịm
dưới gốc cây bạch đàn trắng toát, đờ dại như da
thịt người dưới ánh trăng về sáng....
*
* *
- Con hãy ở nhà. Làm cơm ăn xong rồi hãy
đi chơi bè bạn. Ðược không?
- Thưa vâng!
- Có một việc... hạnh phúc của con đấy.
ý bố vậy, còn tùy con!
- Vâng!... Bột cúi đầu suy nghĩ rồi đi
làm bữa cùng bà Thung...
Ông châm thuốc.... Chính ông không ngờ
mình làm được một việc cuối đời. Chà! Con bé... Từ
cái đêm trăng ấy mách bảo ông. Ông phải cất công
lên nhà lão chủ trang trại ở Ba Sao tìm đường cứu nó.
Lão chủ trại Long Phước trước là cấp dưới của
ông mừng quýnh khi gặp lại ông. Một vùng trời đất rộng
lớn của lão cứ như một trang trại từ những thế kỷ
trước ở châu Âu! Lão thầu hàng chục mẫu đất trồng.
Người làm như ong. Cũng toàn loại thất cơ lỡ vận, đầu
trộm đuôi cướp. Lão không cưỡi ngựa mà dận xe máy
ào ào xuống điều hành công việc ở các xưởng , nơi
những chùm lửa hàn tóe ra xanh lét, tiếng động cơ ầm
ù, nơi có những khuông nhà đong đầy những bò, dê, gia
cầm... Ông thèm cái chỉ tay, cái gật đầu, cái cười
ào ào như tung, như phá của lão bạn. Lão tiếp ông bằng
tái dê, chả chó, chim quay. Thì ra con người vốn cao quý.
Ông thấy óc của thằng bạn là vàng. Và tim nó, một
trái tim dào dạt sóng chiều. Khi ông ngỏ ý gửi con bé
và những thành tích "bất hảo" của nó, thằng
bạn cười rung rinh những đống cơ bắp ụ lên như những
quả dưa hấu ngổn ngang, xếp đống trên người nó!
- Ðược! Nó cần chồng hay cần con. Hả?
- Cần việc!... Sau một giây ngớ ra, ông
trả lời một cách vụng về.
Nó - bạn ông lại cười vỡ ra nghiêng
ngả:
- Chao ôi! Cụ "cổ đại" rồi đấy!
Thời buổi kỹ thuật - công nghệ - la-de-điện tử! Con
người, con người muôn năm! Trước đây, tôi cùng ông
giải phóng những miền đất, thì giờ, tôi giải phóng
những con người. Tôi giải phóng hàng trăm du thủ du thực
đẩy nó về đời thực: lao động, hạnh phúc, con - người
- hoàn - thiện! Chà chà! Chúng nó bắt đôi như ếch, cưới
nhau như tôm tươi, cùng lắm thì cũng tạo hạnh phúc cho
nó một đứa con... Ðó!
- Thế thì... Ông Thung ngập ngừng: - Ðứa
cháu tôi, nó đấy, mong ông ném trả lại cho nó cuộc đời
con gái là được rồi!
- Bắt tay!...
Lão bắt tay ông nổ đánh bốp như một
phát đạn. Ðêm nằm, lão cười nghiêng ngả, kể chuyện
dào dạt say sưa. Trung tá già ứa nước mắt. Ông nghĩ
đến cái làng của ông. Bạn ông đó, chưa tin là mấy
nhưng ông thấy rõ ràng có một luồng gió mới.
Ba tháng sau, Bột về chơi. Nó khóc lặng,
mừng tủi. Nó xin nhận làm một đầu con của ông bà.
Nó - hoàn thiện như một đứa con gái tân tiến hiện đại
với "phăng pho", "cúp kíp", nói chuyện
làm ăn cứ sôi lên như lão chủ trang trại. Nó khoe đang
học "nổ", học "nguội". Ðêm nó nằm
rõ như một con dê bên bà Thung.
Nào ngờ chưa được hai năm nó lại về
làng với cái dụng cụ đồ nghề "hàn", "nổ",
"nguội"... của nó. Nó bảo nó về hẳn quê lập
nghiệp cho cái làng này, cho cái vùng này. Mới ghê!...
Nó có cái sổ gáy vàng gấp gấp mở mở. Nó hỏi cái
thổ đất vạch vẽ... Cứ như một công trình sư.
Từ hôm nó về, ông bà dấp dính cho nó
một đám. Chả ai xa lạ ngoài cậu Mãng. Mới nghe, nó đổ
người cười rũ. Nó dúi vừng mặt chín đỏ vào mặt
bà thủ thỉ: "Cái ông cõng vợ chạy loạn á, mẹ?".
ý nó chê Mãng ít học. Ông bà đành tùy nó.
Ðêm ấy, ông bà dọn cơm chờ nó mãi. Tầm
nửa đêm, bà lo lắng gọi ông. Ông bà nóng ruột lắm.
Ai bảo nó đã có thể thảnh thơi sống giữa cái làng
này? Về được mấy hôm, nó đã dùng tông tát vào mặt
con trai gã "chấm phẩy" ra ý ghẹo nó. Khuya khoắt
thế này, biết tìm nó ở đâu được? Hãy cố chờ nó
lát nữa...
Ông ngồi dậy ra vườn. Ông tha thẩn dưới
một trời trăng. Trăng sáng lắm. Có tiếng nước xối bên
ao, mé vườn ông Năm Hạng. Kìa! Dòng nước như một suối
thủy tinh chảy tuột qua một tấm thân ngà ngọc. Mỗi
khi dòng thủy tinh óng ả ùa xuống thì cả tấm thân
lung linh muôn đốm sáng vọt lên. Bỗng như từ mây lao
xuống một thằng người đen trũi quắp lấy tấm thân
ấy chạy lên vườn. Hai tấm thân một đen, một trắng
vờn nhau quấn quýt. Thằng người ăng - tê bế tấm
thân mượt trắng chạy như điên quanh vườn. Chúng lăn
giãy huỳnh huỵch như đập đất! Trăng tưới... Trăng vô
tư lắm! Chúng hóa thân vào nhau lăn tròn trên vườn cỏ
đẫm ánh trăng. Chúng hổn hển. Cái vườn trăng chòng
chành. Chúng là ai, ông biết rồi. Bàng hoàng, ông lặng
lẽ kéo bà ra vườn. Ông bà lặng nhìn sóng đen lướt
trên sóng trắng giữa tấm thảm nhung ngời ngợi ánh trời...
Bỗng nhiên, bà gục mặt vào vai ông lả
nhũn đi thì thào:
- Hèn nào chiều nay, tôi thấy thằng
Mãng ra công xát trắng cái bộ răng vàng khè của nó.
Ông run lên sung sướng. Nỗi sung sướng
thánh thiện làm ứa đôi giọt nước mắt lăn xuống gò
má khô.
Ồ lạ chưa? Bà Thung... Ðôi bạn già tự
nhiên cứ néo vào nhau, ấp dìu nhau ngã dúi dụi mấy lần
mới vào được đến cửa.
Ðêm ấy, trăng sáng lắm./.
Ðoàn Ngọc Hà