Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là
Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn
mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu.
Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao
cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông
bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.
Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn
nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc
lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi
đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một
thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật
đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng
đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của
nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ.
Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết
của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi
đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân
của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh,
hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra
đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh
là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân
không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước
rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những
lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm
những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người
lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác
một cách kỳ lạ. Ðến máy nước bao giờ bà cũng đi sát
mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình,
không xin xỏ, không tranh giành.
Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước.
Họ chẳng ưa gì bà. Họ săm soi xem thùng nước bà gánh
về có trong không. Có đáng đồng tiền của họ bỏ ra
không. Có người nghi ngờ, bắt bà tháo cả bể nước
đầy ra gánh lại, lấy cớ là bà đã lấy nước bẩn vào
bể của họ. Cũng có những người trả tiền sòng phẳng,
hậu hĩ là khác nhưng họ đưa tiền cho bà rồi vội
quay đi như chỉ sợ dềnh dàng bà nhỡ mồm bắt chuyện
thì mất cả thì giờ và mất cả thể diện nữa. Con người
ta thường hay chối bỏ quá khứ, nếu quá khứ đó là
không vẻ vang. Người đời nay coi nó là bệnh "sĩ".
Nếu như những năm sáu mươi của thế kỷ này người
ta cố chứng minh rằng gốc gác của mình là bần cố
nông thì trong những năm tám mươi người ta lại cố
khoe rằng nhà mình giàu có ra sao, bịa cả những chuyện
đài các rởm không biết ngượng mồm. Thôi thì cũng chẳng
trách họ, âu cũng là do cách nhìn người của thời đại
mà ra. Những bộ mặt đần độn trát bự son phấn vênh
váo, đầy kiêu hãnh giả tạo. Và trong cơn mơ đài các
sang giàu của họ, bà Diễm chỉ là một kẻ làm thuê, một
người gánh nước cho nhà họ. Một thời, chúng ta đã
ghê tởm những từ "con ở", "đầy tớ",
"gái điếm"... Nhưng giờ đây, những từ đó đã
và đang lặng lẽ trở về nhắc nhở người ta rằng, chúng
có mặt trên đời này.
Vậy là bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn
công sặc sỡ. Nhưng bà gắn bó với họ, đúng hơn là với
bể nước nhà họ, vì chỉ có họ mới đủ sức thuê
bà gánh nước. Còn đa số "người nhà nước"
trong khu này chẳng ai đủ tiền để mà thuê, dù muốn
giúp bà. Cơm ăn chẳng đủ, lấy đâu ra tiền mà thuê
gánh nước. Ðành phải xếp hàng dài dằng dặc, hoặc
thức đến hai ba giờ sáng để lấy mấy thùng nước.
Với đôi thùng gánh nước, cứ thế, bà Diễm đi
trong đời như kẻ mộng du và rồi có lẽ với cung cách
mộng du ấy bà sẽ lặng lẽ đi xuống mồ, như một hạt
bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy
may dấu vết.
Nhưng có một sự kiện khuấy động mảnh đời âm thầm
ấy. Ðó là sự xuất hiện của ông Tiếu. Thực ra những
người gánh nước thuê không nhiều ở thời nay. Nhưng sự
xuất hiện của ông Tiếu gắn liền với việc mở rộng
con đường quốc lộ thành đường hai chiều. Ga mới mở.
Những khu nhà cao tầng mọc lên như nấm và người đi lại
nườm nượp trên con đường ấy. Hàng xa xỉ phẩm,
hàng bán đồ ăn đồ nhậu mọc lên nhanh và nhiều vô kể.
Và cần thêm người gánh nước thuê.
Từ đó cạnh máy nước, đôi khi bên bà Diễm có một
người đàn ông chống đòn gánh đứng chờ thùng nước
đầy dần. Hiếm có một khuôn mặt khắc khổ đến thế.
Có đến ngàn vạn nếp nhăn trên khuôn mặt đó. Ðôi mắt
biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông
cứng. Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm một
nụ cười bất biến, như nó được tạo ra trên khuôn mặt
ấy từ lúc mới sinh ra và cứ phải giữ vậy cho đến
lúc chết. Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, thật là
một nghịch lý, như là đang khóc với một nỗi đau xé
ruột, mà có một kẻ tàn ác nào đó cứ nhất định cù
vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi.
Việc hai con người khốn khổ đó bên nhau, cạnh máy
nước làm bọn trẻ trai ngỗ ngược ở đây vô cùng
khoái chí. Chúng gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm".
Người lớn lúc đầu còn mắng, sau nghe quen cười xòa
vì thấy cũng ngồ ngộ, và người ta không gọi ông Tiếu
bằng tên nữa, chỉ gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm".
Thực tình hai con người cô đơn đó cũng thật may mắn
khi họ bỗng nhiên có mặt bên nhau, với những thùng nước
trĩu nặng trên vai. Cũng có những lúc ông Tiếu nhấc hộ
bà Diễm hai thùng nước đầy ra rồi đặt một khoảng
cách vừa tầm để bà Diễm chỉ cần móc xích vào
gánh. Trong chiếc túi áo rách của ông Tiếu luôn có những
hạt lạc rang cháy khét. Thỉnh thoảng ông dúi cho bọn
trẻ con và cho bà Diễm. Bọn trẻ con không ăn, còn bà
Diễm thì nhận lấy và nhẫn nại nhấm nháp những hạt
lạc đen nhờ nhờ, đăng đắng, tỏ vẻ cảm kích lắm.
Một lần bà Diễm bị trượt chân ngã trẹo đầu gối,
ông Tiếu vội dìu bà về túp lều của bà rồi lo cơm
cháo thuốc thang. Thuốc chỉ có nắm lá láng hơ nóng, chườm
bóp. Cơm sang lắm cũng chỉ miếng đậu luộc chấm mắm
tôm.
Bà Diễm rưng rưng: "Vậy chứ nhà ông ở đâu?"
Vẫn với nụ cười muôn thuở, ông Tiếu đáp: "ở
góc chợ Cầu Giấy". "Vậy chứ lúc mưa gió ông
làm sao?" "Thì nép dưới hiên của nhà nào đó
cho qua".
Bà Diễm khóc ròng: "Thôi, ông về đây mà ở
cùng tôi. Tôi và ông cũng sắp xuống lỗ rồi, chắc chẳng
ai dị nghị gì đâu. Ông ơi, hai cái cây đã bị đánh bật
hết rễ, biết tựa vào nhau để đỡ đần thì sẽ lâu
đổ hơn".
Ông Tiếu nhìn xuống đầu ngón chân của mình, không
nói gì, nhưng lần đầu tiên nụ cười hóa đá của
ông biến mất. Rồi từ đó trong túp lều bên bờ ao,
có hai bóng già lọ mọ sớm hôm. Bà Diễm cũng bớt lẩm
nhẩm một mình.
Nhưng một hôm ông Tiếu phải trở về góc chợ cũ để
tìm mấy cái quần áo rách và cái chăn cũ nát. Gió thu
đã se sắt lạnh bên bờ ao. "Làng" của ông Tiếu,
đó là góc chợ với đám người rách rưới lam lũ, lang
thang không nhà do nhiều hoàn cảnh xui khiến nên. Họ bắc
những viên gạch vỡ làm bếp, và lấy những mảnh báo
cũ và ni lông rách treo lên làm buồng. Lâu không thấy
ông, họ xúm lại hỏi ông đi đâu, ở đâu? Ông ấp
úng. Họ càng trêu già, vì biết ông đang ở trong túp lều
của bà Diễm. Một thằng lỏi con kiếm đâu ra cây gậy,
lấy dây chuối buộc hai viên gạch vào hai đầu vờ làm
thùng gánh nước rồi nhăn nhó, còng lưng làm bộ bà Diễm
đang gánh nước cạnh ông Tiếu. Cả đám ré lên cười
như hóa dại. Những người đi chợ thấy ồn ã cũng đứng
lại xem. Ðược thể, chúng càng làm nhiều trò, diễn cảnh
ông Tiếu chân thấp chân cao khoác tay bà Diễm đi chơi công
viên. Mọi người tha hồ đắc chí. Chả mấy phen được
bữa cười vỡ bụng như hôm nay. Rồi họ sẽ trở
thành người kể chuyện có duyên nhất trần đời khi kể
lại cho người khác nghe chuyện này. Chỉ có ông Tiếu
là đứng lặng phắc không nói được câu nào. Lát sau,
vứt lăn lóc bọc quần áo rách, ông lùi lũi trở về túp
lều cạnh bờ ao của bà Diễm. Qua dãy nhà gánh nước
thuê, vài đứa trẻ lêu lỏng thấy ông đã reo lên:
- A bồ bà Diễm. Ðẹp đôi như Chí Phèo và Thị Nở
ấy chúng mày ơi.
Về đến lều, ông nằm vật ra giường, không ăn uống.
Hôm sau ông lên cơn sốt. Bà Diễm hết lòng săn sóc thuốc
thang nhưng vô ích. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng,
ông gọi bà đến bên, lần tay vào mụn vá lớn sát ngực
lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng và một trăm đồng bạc
gói kỹ tự bao giờ trong túi ni lông. Trong ảnh là một
bé gái tóc tơ xấp xõa, đôi mắt tròn đen mở to ngây
thơ. Ông Tiếu thều thào:
- Con tôi đấy bà ạ... Nó bị mất tích trong một trận
bom. Người ta bảo nó đã chết cùng với mẹ nó. Nếu
thế tại sao chỉ tìm thấy xác mẹ nó thôi. Tôi tin nó
vẫn còn sống, có thể nó lưu lạc ở phương nào. Lê
con ơi...
Từ đôi mắt mờ đục của ông, hai giọt nước như
được gạn từ đáy mắt, như những giọt thủy ngân
khó nhọc lăn ra. Ông nức lên, nói đứt quãng:
- Bà ơi, nếu... có... một ngày... nào... đó bà thấy
có một người con gái... trạc hai mươi... mà giống
con... bé trong ảnh này... bà nhớ gọi lại hỏi gốc
gác... xem có phải bố nó là ông Tuyền ở xóm Ðoài,
xã Hoài Ân... không nhé. Và nếu phải... bà nói rằng bố
nó vẫn chờ nó... cho đến chết... bà đưa cho nó một
trăm đồng... bạc này...
Rồi ông thở hắt ra. Nụ cười oan nghiệt vĩnh viễn
tắt trên đôi môi ông.
Bà Diễm ngồi lặng câm nhìn tấm ảnh và một trăm
đồng bạc côi cút. Trăm bạc này, chắc ông đã ki cóp
từ lâu lắm, khi nó còn mua được nửa chỉ vàng. ốm
đau đói rét bao phen, cũng không bao giờ dám đụng đến,
để cho đến bây giờ, một trăm đồng bạc của ông
dành cho con cũng chỉ đủ để mua một mớ rau muống...
Rồi mộ ông Tiếu cỏ xanh phủ dần, đám cỏ đuôi
gà bò lan cả ra mặt đất bằng. Thỉnh thoảng bà Diễm
thắp vài nén hương cho ông, lần nào bà cũng thầm thì
khấn:
- "Ông Tiếu ơi, tôi vẫn để ý tìm con cho ông
mà đâu thấy. Tôi tìm cả khi chờ thùng nước đầy, cả
khi đang gánh nước, ngày này qua ngày khác. ờ, nếu nó
còn sống thì tôi cũng chẳng còn mấy thời giờ nữa để
làm việc đó cho ông. Tôi cũng sắp theo ông về với đất
rồi đây. Nhưng mãi đến tận lúc này, tôi vẫn tin có
thể chốc nữa, có thể tối nay, ngày mai, con bé đến và
hỏi, giọng nó trong veo: "Có phải ông Tuyền cha
cháu ở đây không?...".
Người ta bảo nhau rằng, dạo này bà Diễm càng dở hơi
tệ, bởi vì ngoài cái tật cứ nói lẩm bẩm một mình,
trong tay bà không bao giờ rời cái gói nhỏ bọc vải nhựa
đã cũ mèm, chẳng khác mụ phù thủy đang giữ chặt bùa
phép duy nhất giúp cho bà còn sống trên đời này. Có ai
biết rằng cái bùa phép đó là tấm ảnh một bé gái đã
ố vàng và một trăm đồng bạc cũ. Ðằng sau tấm ảnh,
một dòng chữ mới viết xiên xẹo đầy lỗi chính tả:
"Ðây nà cháu Nê, con ông Tuyền ở xóm Ðoài, xã
Hoài Ân... một trăm đồng bạc lày nà của
cháu!"./.
1987
Võ Thị Hảo