Anh phải nghỉ lại đây với tôi một đêm,
anh Nǎm ạ. Chẳng mấy khi bạn bộ đội cũ gặp nhau. Vả
lại mưa phùn lầy lội thế này, anh đi làm gì vội.
Đây là nhà mẹ Thái, nơi gia đình chúng
tôi ở nhờ những nǎm tản cư trong kháng chiến chống
Pháp. Bắt đầu từ nǎm 1948, phải, khi ấy tôi mới 14
tuổi. Bao nhiêu kỷ niệm đã dồn dập diễn ra trên mảnh
đất này, thấm thoát đã trên 30 nǎm rồi. Chính vì để
nhớ lại chuyện xưa, tôi đã lặn lội về đây. Tình cờ
lại được gặp anh, may thế!
Cảm ơn anh đã hỏi về việc vợ con
tôi. Tôi vẫn nằm giường cá nhân, nghĩa là "vô sản"
như hồi xưa, như hồi sống chung với anh cùng đơn vị.
Tâm sự của tôi thì dài lắm, nếu anh chịu khó nghe,
tôi xin kể...
Cha mẹ tôi được mỗi mình tôi. Tản cư
từ Hà Nội cuối nǎm 1946, đến 1947 cha tôi nhập ngũ.
Ông mất rất đột ngột vì sốt rét ác tính ở vùng
Nho Quan - Chi Nê. Mẹ tôi phải gắng gượng để sống mà
nuôi tôi. Bà bán dần mòn từ đồ nữ trang đến quần
áo, rồi cuối cùng cơ quan phụ nữ tỉnh nhận bà vào
biên chế. Mẹ con tôi đến ở nhà mẹ Thái đây.
Trong chuyến đi công tác ở thị trấn
Thanh Xuân mẹ tôi tình cờ gặp một bà bạn học Hà Nội
tản cư tại đó. Cô Mai - tôi thường gọi thân mật
tên bà như vậy - đang sống trong tình cảnh rất
gieo neo. Mẹ tôi kể rằng chồng cô đã bỏ cô,
"dinh tê" vào thành, để lại cho cô một bức thư
đoạn tuyệt và đứa con gái lên mười. Không nơi
bám víu. Cô Mai nhận lời chung sống với một lão chủ
hiệu chữa đồng hồ. Nào ngờ lão ta đã có vợ. Vợ
lão ta đánh ghen, đập phá, mắng chửi, đuổi mẹ con cô
Mai ra khỏi nhà. Trong những ngày ấy, mẹ tôi luôn luôn
nhắc đến cô Mai và tìm mọi cách giúp đỡ cô.
Thế rồi một buổi chiều, cũng mưa phùn
ẩm ướt như thế này, mẹ tôi bước vào nhà - chính chỗ
anh và tôi đang ngồi đây - hai mắt mẹ tôi đỏ hoe, một
tay xách cái tay nải, tay kia dắt một đứa con gái gầy
quắt khóc sướt mướt. Không chịu nổi những khổ đau
dồn dập, cô Mai đã nhảy xuống sông tự vẫn! Và mẹ
tôi đã nhận đứa con gái bạn - tên là Thu - về nuôi.
***
Khi đó Thu lên mười kém tôi bốn tuổi.
Mấy ngày đầu, Thu không chịu ǎn, chỉ
khóc. Mẹ tôi giở cái tay nải - tài sản duy nhất còn lại
của cô Mai - lấy áo quần ra khâu vá lại cho Thu. Mẹ dạy
tôi phải coi Thu như em. Mẹ lập bàn thờ cô Mai ở góc
nhà, không xa bàn thờ cha tôi là mấy.
Thế rồi tôi kèm cho Thu học thêm. Mẹ
tôi âu yếm một điều "mẹ mẹ con con" với
Thu, trong khi Thu cứ một mực xưng "cháu" và gọi
mẹ tôi là "bác" Thu ǎn uống rất giữ ý, và thường
tranh lấy việc để làm: quét nhà, rửa bát, nấu cơm...
Có lẽ những ngày ở nhà ông bố dượng chủ hiệu chữa
đồng hồ, em đã phải sống gần như đứa ở. Mẹ tôi
xót xa về điều đó lắm, và thường thu xếp để em
ít phải làm việc nhà chừng nào hay chừng ấy.
Tôi là con trai, khỏe sức, mẹ tôi sai
tôi gánh nước ở giếng về đổ vào bể xây nhà mẹ
Thái đây, để mọi người dùng chung. Tôi bổ củi. Tôi
xay lúa. Tôi giã gạo. Mùa rét, tôi đun nước, múc nước
cho mẹ tôi và Thu tắm, gội đầu. Còn mẹ tôi thì
ngoài công tác ra phải lo chợ búa, bếp núc, khâu vá, trồng
rau, nuôi gà. Bà chi tiêu rất dè sẻn, vì dù sao cũng đã
có thêm một miệng ǎn.
Có lần mẹ tôi đi công tác dài ngày,
ở nhà Thu bị ốm. Em sốt run bần bật. Tôi đun nước
xông theo lời chỉ dẫn của mẹ Thái và nấu cháo Thu
ǎn. Gà đã đẻ được 13 quả trứng, tôi mang ra chợ
Song bán đi một chục, còn ba quả tôi luộc dần để
Thu bồi dưỡng. Có bữa hai anh em ngồi vào mâm cơm, quay
đi quay lại, khi tôi và đến lưng chừng bát cơm thì
thòi ra một nửa quả trứng - Thu bí mật giúi trứng
vào để buộc tôi phải ǎn.
Dần dà, Thu bớt xanh và gầy đi. Em linh
lợi và hoạt bát hẳn. Mẹ tôi xin cho em đi học trường
làng. Chẳng mấy chốc Thu hòa ngay với các bạn
gái trong xóm. Bấy giờ tôi mới phát hiện ra rằng
Thu nghịch như con trai. Em đá cầu vào loại giỏi nhất
trường và leo trèo như vượn. Có lần mẹ Thái muốn bẻ
buồng cau, hỏi tôi có biết trèo không. Tôi lắc.
Thế là Thu thoǎn thoắt leo lên tận ngọn, không những cắt
được buồng cau thả xuống, mà còn bắt gọn hai con sẻ
ra ràng làm quà cho tôi nữa. "Chiến công" này của
Thu, tôi và mẹ Thái giấu biệt không cho mẹ tôi biết.
Hồi ấy, mẹ con tôi được ở cả gian
nhà ngoài này. Mẹ tôi và Thu ngủ giường bên trái, một
mình tôi nằm giường bên phải. Hễ mẹ tôi đi công
tác thì mẹ Thái ở trong buồng phải ra ngủ với Thu,
vì không hiểu sao em sợ ma lắm. Một buổi sớm em kể với
tôi rằng em ngủ mơ thấy mẹ Mai nằm nổi lên giữa
lòng sông; nước đẩy mẹ quay tròn... Rồi ôm lấy cổ
tôi gục đầu vào vai tôi, em khóc. Tôi chỉ biết im lặng
vuốt tóc em để an ủi em.
Đầu nǎm 1952, tôi tròn 18 tuổi. Theo sự
giới thiệu của mẹ Thái, lần đầu tiên tôi thoát ly
gia đình, xuống tận huyện Đông Sơn dạy học tư. Nhà
chủ là một gia đình trung nông cứng, muốn nuôi thầy
để kèm cho cậu con trai độc nhất - lười và dốt
đang học lớp hai. Ngoài ra, thầy còn dạy chữ thêm cho
bà vợ và cô em ông chủ, cùng bốn nǎm chú bé hàng xóm
nữa. Thầy được nuôi ǎn ngày ba bữa, không bữa nào
thiếu thịt và cá biển. Cơm bưng nước rót. Mình thầy
một mâm. Đôi khi ngủ trưa dậy, lại có xôi chè!
Những ngày được ǎn uống đầy đủ
như vậy, tôi rất thương mẹ tôi và Thu kham khổ. Do đó,
cứ cuối mỗi tháng, sau khi ông chủ trả tiền công, là
tôi cuốc bộ bốn mươi ki lô mét về thǎm nhà và đưa
tiền cho mẹ tôi. Không bao giờ tôi quên rẽ vào hàng
xén mua quà cho Thu, khi thì cái cặp tóc, quyển vở, khi
thì cái gương, cái lược.
Cuối tháng bảy nǎm ấy, tôi bị ốm đột
ngột, không về đưa tiền cho mẹ tôi được. Pháp lại
ném bom mấy trận quanh vùng. Thế là mẹ tôi sốt ruột,
phái Thu lặn lội đến thǎm tôi.
Buổi trưa, tôi vừa dứt cơn sốt, thấy
một cô gái tóc tết thành hai đuôi sam, mặc áo nâu non,
mặt đỏ hồng vì nắng, cắp nón có gài lá ngụy trang,
bước vào sân bẽn lẽn: "Chào bác ạ! Cháu hỏi thǎm..."
Bước thêm hai bước nữa, Thu mới nhận ra tôi, và cả
tôi, tôi cũng không nhận ra Thu lúc em thoạt vào. Bởi
vì tôi đang ngồi co ro khoác cái áo ca-pốt lính tẩy bằng
dạ mầu cứt ngựa của ông chủ, còn Thu thì nom lạ
quá với hai cái đuôi sam mới. Hai anh em mừng rỡ cười
chế nhau mãi.
Thu ở lại sǎn sóc tôi hai hôm. Em đánh
gió cho tôi (cách đánh gió do mẹ tôi dạy), nấu canh cua
rau đay, và cháo hến là hai món ǎn tôi thường thích.
Chiều mát, Thu theo tôi ra ngồi bờ ao, bên gốc cây sung
xem con rùa thảnh thơi bơi ra lội vào (con rùa của chú
bé con ông chủ nhà nuôi thả). Thỉnh thoảng một trái
sung chín rụng, con cá trắm to bằng bắp đùi lừ đừ nổi
lên, nhẹ nhàng đớp lấy quả sung, ngon lành như nuốt một
viên kẹo.
Tối đến, cả nhà ngồi quây quanh ngọn
đèn ba dây trò chuyện. Ông chủ bà chủ luôn miệng biểu
dương "cậu giáo": - "Cậu giáo thật chǎm,
chẳng hút thuốc chẳng ǎn quà". - "Sau này ai lấy
được cậu giáo thì sướng cả đời đấy!".
Cô em ông chủ có vẻ ngượng ngùng,
không dám vào ngồi góp chuyện, cứ lượn ra lượn vào
ở dưới nhà ngang.
Sớm sau, tôi tiễn Thu ra tận đầu làng,
dặn dò em phải cẩn thận khi đi đường, qua đò, phải
chú ý nghe tiếng máy bay. Thu ngước thật to đôi mắt
đen thẳm - đôi mắt đã ánh lên vẻ đẹp dậy thì, - cười
và hỏi tôi một câu thật lạ: "Anh... anh có thân với
cô em ông chủ nhà không đấy?"
***
Sau đại thắng Điện Biên Phủ, tôi náo nức xin nhập
ngũ. Mẹ tôi rất muốn tôi ở gần mẹ, nhưng thông cảm
với ước mơ 20 tuổi của tôi, bà khuyến khích tôi đi
bộ đội để phục vụ, biết đó biết đây, và thoát
khỏi cảnh tù túng của "cậu" giáo dạy tư luẩn
quẩn trong làng. Thu cũng không ngǎn cản tôi. Em nói:
"Điều gì anh thích thì em cũng thích".
Buổi tối⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪⨪
trẻo và hiền lành củ mỉ cứ nấn ná ngồi lại mãi.
Quyền đã là giáo viên cấp I. Tôi để ý thấy cậu ấy
rất mến Thu. Có lần tôi đùa: "Cậu có muốn làm
em rể tớ không? Cái gì chứ nết hiền lành chǎm chỉ của
cậu là tớ ưng rồi đấy!". Quyền đã đỏ bừng mặt,
bẽn lẽn cười...
Thu lộ vẻ sốt ruột khi thấy Quyền ngồi
lì mãi. Em nói: "Anh Quyền không phải chấm bài
ư?". Thế là Quyền lúng túng đứng dậy, lí nhí xin
phép mẹ tôi và bắt tay tôi để ra về. Tôi và Thu tiễn
Quyền ra tận cổng. Đứng bên giậu ruối, dưới trǎng,
Thu bỗng nắm lấy tay tôi, nói nhanh và nhỏ: "Anh đi
vui thế, chắc chả nhớ em một tí nào đâu nhỉ?
"Tôi cười, vỗ nhẹ vào vai Thu: "Sao lại chả một
tí nào?... Anh nhớ Thu to bằng cái nhà này này!..."
Thế là hai đứa cười giòn tan. Chúng tôi cứ đứng đó
hóng gió mát, nhìn lên trời đêm trong vắt và đầy sao,
mãi cho đến khi mẹ tôi ra gọi về đi ngủ.
Hôm sau, Thu lẽo đẽo theo tôi đến nơi
tập trung cách nhà trên 15 cây số. Cứ đi được một
chặng dài Thu lại nói: "Thôi, em đếm đúng tám mươi
bước nữa, rồi em về!". Chúng tôi cùng đếm. Hết
tám mươi bước, Thu bảo: "Anh đã mỏi chân chưa? Em
chẳng mỏi tí nào. Em còn đi được nữa!". Thế là
hai đứa cùng cười và cùng bước tiếp. Qua con ngòi nhỏ,
Thu vén quần lội. Em có đôi chân đẹp, trắng ngần,
khiến tôi bỗng dưng thấy ngượng, bước cách xa ra một
chút. Thu dừng lại, chìa tay ra trách yêu: "Anh không
dắt em, để em chết trôi ở đây sao?". Tim tôi bỗng
như ngừng đập. Câu Thu nói vô tình làm tôi chợt nghĩ
đến cái chết oan trái của cô Mai... Tôi lùi lại, nắm
lấy bàn tay Thu, bước những bước chập chờn, lòng bồi
hồi những vui buồn lẫn lộn.
Không biết từ bao giờ Thu đã gọi mẹ
tôi là mẹ và xưng là con một cách tự nhiên, không
"bác bác cháu cháu" như những ngày đầu nữa...
Và có lần mẹ tôi đã nhẹ nhàng cǎn dặn tôi: "Thu
nó đã lớn, mười sáu tuổi rồi. Anh em thân nhau nhưng
đừng suồng sã, kẻo người ta dị nghị. Đời cô Mai
đã khổ thế, mẹ muốn tránh cho nó những tiếng chẳng
lành..." Tôi rất thương và quý trọng mẹ tôi.
Vì bà đã dành tất cả tình cảm cho tôi và Thu. Bà nhất
định không đi bước nữa, mặc dầu khi cha tôi mất,
bà mới ba mươi tuổi, và sau đó có đến bốn nǎm đám
ngỏ ý muốn xin được chung sống cùng bà.
Cái hôm tiễn tôi đi bộ đội ấy, Thu
đã vượt quá ranh giới những điều cǎn dặn của mẹ
tôi. Hai anh em bịn rịn trò chuyện mãi - có lúc chỉ
nhìn nhau chả nói câu nào - Đến xế chiều thì trời nổi
cơ giông gió ầm ầm. Thu đành phải ở lại nơi tập
trung lính mới. Đêm ấy tôi báo cáo với ban chỉ huy,
thu xếp cho Thu ngủ ở cái quán ven sông của một bà cụ
bán hàng nước. Anh em trong đơn vị đều tưởng Thu là
em ruột tôi, và nhiều cậu đã giả vờ "nịnh"
tôi trước mặt Thu để "đợi thời cơ làm em rể".
Tôi ngồi bên bờ sông với Thu khá khuya. Mấy đứa trẻ
nghịch ngợm đi qua ném đất về phía chúng tôi và hô
lên trêu chọc: "Lêu lêu vợ chồng! Lêu lêu vợ chồng"
khiến tôi ngượng chín cả người; còn Thu thì đứng phắt
dậy ném trả bọn trẻ, miệng lầu bầu tức giận.
Mờ sáng hôm sau tôi cùng đơn vị xuống
thuyền để đến một địa điểm mới. Nhìn về quán
bà hàng nước, tôi thấy Thu đang hớt hải vừa chạy vừa
giơ tay vẫy, gọi to: "Anh Dương! Anh Dương! Đợi em
với! Đợi em với!". Tôi chỉ kịp nhoài người ra
khỏi khoang thuyền, cố giữ vẻ mặt tươi cười hét vọng
lên bờ: "Em về nhé! Về nhé!"
Con thuyền xuôi nhanh theo dòng nước xiết.
Các bạn tôi reo cười, nhất loạt đứng lên chào Thu.
Tôi lặng nhìn em đứng im trên bãi cát như một bức tượng,
quanh cổ vẫn buộc chiếc khǎn thêu đêm qua tôi đã tự
tay quàng cho em khi thấy em húng hắng ho sau cơn mưa gió lạnh.
Tôi bồn chồn thương em, nhớ em, và lo cho em về nhà mẹ
mắng...
***
ở đơn vị, tôi nhận được thư mẹ tới khá đều,
bao giờ cuối thư cũng có vài dòng thêm của Thu. Em
không có thói quen viết dài, chỉ luôn đặt những câu hỏi:
"Anh có khỏe không?" - "Anh có nhớ em
không?" - "Anh có đủ ấm không? - "Bao giờ
anh có thể ghé qua nhà?" - "Anh ǎn có no
không?"
Qua thư nhà, tôi được biết Thu đã tốt
nghiệp lớp 7, và ý mẹ tôi muốn hướng Thu vào nghề dạy
học. Mẹ còn hỏi tôi khá kỹ về Quyền, cái cậu giáo
viên hiền lành bạn tôi ấy. Mẹ cho biết Quyền có vẻ
quyến luyến Thu lắm, và mẹ cũng thấy mến chàng trai
này. Mẹ muốn biết ý kiến của tôi ra sao. Đọc thư mẹ,
tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi không tự phân tích được
tình cảm của mình nữa. Điều thật rõ là tôi thương
Thu, rất thương Thu. Tôi không muốn đời Thu lại gặp
những éo le, trắc trở. Quyền yêu Thu, đó là điều tôi
biết chắc. Còn từ ngày tôi ra đi tới nay, Thu đối với
Quyền ra sao, trong thư mẹ tôi không nói; và Thu cũng không
viết một chữ nào nhắc đến Quyền. Tôi trả lời mẹ
chung chung là Quyền chân thật, hiền lành, có thể tin cậy
được.
Mùa xuân nǎm 1956, sau gần hai nǎm đi xa,
tôi có dịp ghé về thǎm nhà. Tôi đeo ba lô, bồi hồi bước
trên con đường uốn lượn quanh những ngọn đồi đất
đỏ. Những bụi hoa mua hoa sim tím lại, những chùm hoa
xoan mọng nước lẫn trong mầu mây, những cánh hoa trẩu
trắng trên cây và rải trắng mặt đồi, tất cả đều
khơi dậy trong tôi những kỷ niệm xốn xang về những nǎm
tháng đã cùng lớn lên, cũng sống với Thu khi em mười
tuổi...
Thu đã đón tôi một cách thật là bồng
bột. Em đang vo gạo. Thấy tôi bước vào cổng, em quǎng
cả rá gạo, reo lên, chạy ù ra nắm chặt lấy hai tay
tôi mà lắc: "Anh Dương! Anh Dương! Mẹ ơi, anh
Dương về!...". Rồi trước mặt cả mẹ tôi, mẹ
Thái, Thu đỡ ba lô từ vai tôi xuống, quạt cho tôi, múc
nước cho tôi rửa mặt. Em nắm tay tôi, nhìn chǎm chắm
vào mắt tôi, cười: "Anh đen đi bao nhiêu! Anh có nhận
được thư em mới viết không?". Tôi trả lời chưa
nhận được vì đơn vị chuyển địa điểm trú quân,
chắc là thư đến trễ.
Bữa cơm tối đó, Thu hầu như không ǎn
mà chỉ ngồi nói chuyện líu lo và gắp cho tôi. Dưới
ánh đèn, nom Thu càng đẹp. Người em dỏng cao, chắc lẳn;
hai con mắt to, đen nhánh. Thu nhìn tôi, lộ rõ niềm vui rạng
rỡ và sự cảm mến không che giấu. Có lúc không chịu
nổi cái nhìn ấy, tôi bối rối cúi đầu xuống mâm cơm
hoặc quay sang hỏi chuyện mẹ tôi. Thu có đôi môi mỏng,
hồng, hơi "đanh đá", nhưng khi em cười thì quả
thực tôi chưa hề thấy cô gái nào có sự hồn nhiên
trong sáng đến như vậy. Bao giờ tôi cũng chịu thua trước
cái cười ấy, và chẳng khi nào giận được Thu lâu.
Sau bữa cơm, Thu dẫn tôi đi chào thǎm các
bạn bè và gia đình trong xóm. Hai đứa đi trong bóng tối
dìu dịu mùi hoa xoan, hoa bưởi. Chốc chốc Thu dừng lại,
hỏi tôi có nghe tiếng chim gọi vịt kêu không. Tôi bảo
có. Thu nói, giọng rầu rầu: "Như tiếng ai gọi ấy,
anh nhỉ...". Thế là từ đấy, tiếng chim gọi vịt
vời vợi khi xa khi gần mùa xuân nào cũng gợi cho tôi nhớ
đến Thu, một nỗi nhớ giằng xé gần như là một nỗi
đau không bao giờ dứt...
Tôi đã đi xa câu chuyện mất rồi! Anh uống
nước đi, để tôi xin kể tiếp anh nghe.
Tối hôm ấy, tôi và Thu đi quanh xóm
xong, trở về nhà, thì vừa gặp mẹ tôi tiễn mẹ cậu
Quyền ra cửa. Thu lảng ngay xuống bếp.
Mẹ tôi ra hiệu cho tôi ngồi vào bàn để
mẹ tôi nói chuyện. Mẹ cho biết cha mẹ Quyền muốn xin
Thu về làm dâu. Theo ý mẹ, Quyền là một thanh niên đứng
đắn, sáng sủa, đã có nghề nghiệp, lại là con trai độc
nhất của gia đình tử tế, đủ ǎn; nếu lấy Quyền thì
Thu sẽ sung sướng.
Tôi ngồi im lặng, cúi đầu nghe mẹ tôi
nói. Tôi không thể cất tiếng hỏi mẹ, cũng không thể
trả lời, chỉ nghe rõ tiếng trái tim mình đập vội. Cuối
cùng, mẹ tôi nắm lấy vai tôi, nhìn vào mắt tôi:
"Con đã chẳng nhận xét Quyền là một người chân
thật, hiền lành, có thể tin cậy được trong thư
con viết cho mẹ là gì?... Và chính con đã nói với Quyền
rằng con ưng nhận nó làm em rể, có đúng thế không?...
Tôi giật thót mình. Với một phản ứng
tự nhiên, tôi cãi: "Mẹ ạ, đó là con nói đùa!...
Với lại, cái chính là phải tùy em Thu chứ!".
Mẹ tôi hạ thấp giọng, nói run run:
"Mẹ biết hai anh em con rất... quý nhau. Chính vì mẹ
muốn giữ cho tình anh em thương nhau, quý nhau lâu dài,
mà mẹ thấy cần để cho Thu đi lấy chồng, con ạ...".
Mẹ tôi vừa nói tới đây thì cánh cửa
buồng bật mở tung. Thu từ trong buồng ôm mặt chạy vụt
ra, vừa chạy vừa khóc tấm tức. Thì ra em đã từ bếp
lẻn vào buồng nghe rõ hết đầu đuôi câu chuyện.
Hai mẹ con tôi đuổi theo Thu, đến gần
bờ nông giang mới giữ được Thu lại và dắt Thu về.
Hôm sau, Thu đùng đùng lên cơn sốt. Em vật
vã, nói mê lảm nhảm. Mẹ tôi cuống quýt đun nước xông,
đánh gió cho em.
Xế chiều em đã tỉnh. Tôi bưng bát
cháo đến cho em ǎn. Em nằm thẳng ngay ngắn, đầu hơi
ngả về một bên. Mẹ tôi đắp cho em một tấm vải đỏ
lâu nay vẫn dùng để dán khẩu hiệu trong các cuộc họp
- mẹ chẳng có cái chǎn đơn nào!
Thu nằm im, lim dim mắt. Má em
đã hồng trở lại. Tôi đứng lặng ngắm em, nhìn mầu
đỏ của tấm vải khuôn lấy thân hình thon nhỏ của
em... Và bỗng nhiên nhói lên trong tôi một sự thật bấy
lâu ủ kín: tôi yêu Thu, tôi tha thiết yêu Thu! Tôi muốn
kêu to lên điều ấy, ngay lúc này đây, để cho Thu và mẹ
tôi cùng biết.
Như đón được ý nghĩ của tôi,
Thu từ từ mở mắt. Em đưa bàn tay ra cho tôi nắm, và nước
mắt em trào ra câu nói: "Thôi, anh... Thôi, anh đừng
nói nữa... Em hiểu hết cả rồi... Điều gì anh và mẹ
muốn, thì em sẽ làm theo... Em đã làm phiền mẹ và và
anh nhiều lắm rồi mà!...".
Thu rút phắt bàn tay lại. Và tôi đứng
sững sờ, chết lặng khi Thu òa lên khóc.
***
Hết phép, tôi, và cười cợt ý định cầu hôn của Quyền.
Sự việc éo le như vậy đấy,
anh ạ. Lá thư như ánh sáng một ngôi sao đến chậm,
nhưng mãi mãi chiếu nhói vào tim tôi, không khi nào tắt.
Cuối nǎm 1957, mẹ tôi viết
thư báo tin và gọi tôi về dự đám cưới Thu vào ngày
27 tháng 12. Quyền cũng viết thư cho tôi một bức thư tràn
đầy hạnh phúc, và không quên ngỏ lời cảm ơn tôi đã
giúp đỡ anh trong việc xây dựng gia đình! Riêng Thu
không viết cho tôi, dù chỉ là một chữ.
Tất nhiên tôi không thể về
dự đám cưới. Tôi gửi một số tiền dành dụm được
cho mẹ tôi, và một tấm vải dù mừng Thu. Ngày 27 tháng
12 đối với tôi trở thành ngày kỷ niệm đau buồn. Tôi
biết giận ai trong chuyện này được? Giận Thu ư? Giận
mẹ tôi ư? Hay là giận chính tôi?
Sau đó, tôi nhận được thư
của Thu đề ngày 1 tháng 1 nǎm 1958. Thu chúc mừng tôi nǎm
mới, và viết: "Anh Dương ạ, từ nay em sẽ vĩnh
viễn là em gái của anh. Đ