Hôm lặn lội tới Tràm Chim viết bài về
loài sếu đầu đỏ, nghe đồn cái quán nhậu quay mặt ra
kinh Đồng Tiến có món đặc sản ngon nhất xứ, tôi tò
mò dò tới uống một vài li chơi.
Món nhậu đặc sản của Đồng Tháp là thịt
chuột. Có tới hàng chục món, hàng chục cách chế biến:
luộc, hấp, nướng than nguyên con; chả băm viên vo tròn
chiên giòn; xào lăn, nấu cà ri, nấu măng, nấu sả, nấu
ớt, nấu giả cầy... Đương nhiên trong lúc chờ dọn
món, khách hàng cũng được dịp thưởng thức đủ mọi
loại âm thanh vang lên từ nhà bếp; khi thì xèo xèo, lục
bục, lúc thì chát chát, cạch cạch... Mùi thơm xực nức
cứ xộc vào mũi. Chưa dùng món, nước miếng đã tứa
ra...
Chủ quán hỏi tôi ngoài món chuột đồng
Tân Công Sính, ông có dùng thêm món rắn nước Phú Cường
không. Tôi bảo ông cho tôi một tô cháo là được. Một tô
nhỏ xíu thôi. Sau khi nhậu xong. Mà nhớ nhắc, tôi không
kêu lại đâu. Tôi có tật khi nhậu là chẳng nhớ được
những gì mình dự định hoặc nói trước đó. Nhưng nhớ
tính tiền cho sòng phẳng nghe ông...
Chủ quán nói ông vui tính quá. Nhất định
là ông sẽ được hài lòng thôi. à, mà ông có cần các bạn
ông đang nghỉ ở nhà khách huyện ủy Tam Nông tới góp
vui thì tui sai thằng nhỏ nó đi kêu ngay. Tui nghĩ các bạn
ông sẽ không ai nỡ từ chối ông đâu. Một người hào
hoa như ông mà lại đi nhậu một mình, xem ra có cái gì đó
không mấy bình thường. Hay ông có tâm sự? Tiếc rằng
ở miệt heo hút này không có mấy em như ở nơi khác. Nhưng
món nhậu thì tuyệt! Tui bảo đảm cả thế giới không nơi
nào có những món nhậu hết chê như ở Tràm Chim. Cũng không
có những chuyện tình lạ như ở chốn này...
Tối ấy tôi nhậu một mình. Ngon thiệt!
Món nào tôi cũng kêu hai miếng. Chỉ hai miếng thôi. Miếng
thứ nhất nhấm nháp tìm hương vị. Miếng thứ hai đưa
cay. Giữa các món đảo mắt một vòng nhìn xuống lòng
kinh, coi thuyền gắn máy chạy ngược chạy xuôi, hoặc nghĩ
tới một câu thơ viết về sông nước Đồng Tháp Mười.
Chậc, chả nhớ nổi lấy một câu thơ nào cho gọi là
có. Rồi tự an ủi mình: thời trân cũng là thơ chứ sao?
Thơ từ thị giác, vị giác, xúc giác. Tứ thơ nhìn, ngửi,
nhai nuốt dung tục mà cũng thanh tao biết mấy...
Tôi hình như đã ngà ngà say. Có lẽ vì thế
mà khi thấy một cậu thanh niên ngoài hai mươi, tóc tai bù
xù, mặt mũi bơ phờ, dài dại tự ý ngồi xuống bên cạnh,
tôi cũng không tỏ vẻ bực bội, chỉ hơi nheo mắt nhìn cậu
ta, ra ý thăm dò. Người kia cũng không đáp lại. Chứng tỏ
anh ta không có ý xin ăn. Cũng không tỏ ý khiêu khích,
trêu ngươi. Hình như anh ta không thèm biết tôi đang ngồi
nhậõu ở cái bàn này. Lạ hơn, anh ta bất ngờ hất hàm
về phía chủ quán, giọng rất hách, tính tiền, tính tiền
lẹ cho tui còn đi nào, chủ quán đâu, tính tiền, chủ
quán...
Chủ quán tươi cười đi tới. ông vỗ nhẹ
mấy cái lên vai người trai trẻ mặt đang ngớ ra như vừa
sực tỉnh, nhẹ nhàng nói cậu cứ vô đây ăn uống cho thật
đàng hoàng, thật no say đã, rồi đâu có đó, muốn tính
bao nhiêu tiền tui cũng chịu, nào, mời cậu...
Cậõu con trai ngoan ngoãn vâng lời. Anh ta
ra ngồi cạnh bờ sông, miệng lẩm bẩm tàu kia mà vào tay
ba tui thì bỏ bà nhà nó. Hên cho nó là ba tui về thành phố
rồi. Mà tui lại không phải là giải phóng, tui cũng không
phải là dì Tư. Tui không có lựu cũng chẳng có mìn, tui
chỉ là con của ba tui...
Một lát sau, anh ta đứng dậy, chắp tay chào
chủ quán: con xin chào chú ạ, con đi đây, tiền con thiếu
chú cứ ghi vô sổ, vài bữa nữa ba con xuống tính, chú đừng
buồn con nghe chú, mốt con lại tới nhậu giúp đỡ chú đó
chú à. Rồi bỏ đi.
Thấy tôi tỏ ý lạ, chủ quán nhậu giải
thích: nó là con anh Hai T y ông ạ. Đại tá Hai T g lẫy một
thời ấy mà. ông không biết a? Nó theo xe của công ty du lịch
gần nhà nó xuống đây. Nó vậy nhưng hiền khô à, chẳng
biết hại ai đâu...
à, thì ra đó là một cậu bé mát!
Nhưng anh Hai T i nhỉ? Mà nổi tiếng tới mức
một chủ quán nhậu bình thường cũng hay tên? Uy tín tới
mức cậu con trai của ông đi tới đâu, không một cắc một
đồng dính túi cũng vẫn được người ta cho ăn cho uống
tử tế?
Tôi đem điều thắc mắc ấy hỏi chủ quán.
ông nói đấy là chuyện của thời chiến tranh, cái thời
người ta đi vào chỗ bom đạn, chết chóc mà vẫn thản
nhiên như đi chơi vậy. Ai yêu nhau vẫn cứ yêu nhau. Yêu
say đắm. Yêu như thể lấy tình yêu mà giật sự sống ra
khỏi tay cái chết!
Ví như chuyện anh Hai và chị Tư đi đánh
tàu chẳng hạn. Lý do cấp trên phải cử hai người cùng
đi một chuyến cũng đơn giản, anh Hai biết cách đánh
tàu nhưng lại chưa quen bẻ ghe máy; còn chị Tư thì lại
nổi tiếng là người thông thạo về ghe thuyền, luồng rạch
vùng này. Tính chất của trận chiến rất ác liệt nên người
ra đi được coi là cảm tử. Vì vậy, đơn vị đã làm lễ
truy điệu sống cho hai người trước khi họ xuất kích.
Tới vị trí phục kích tàu đã được chọn
từ trước, Hai T một cái hố giấu xuồng, lại trùm lên
bên trên xuồng một lớp bùn mỏng. Anh bàn tính với chị
Tư chọn lúc chập tối làm thời điểm khai hỏa. Vì sau
trận đánh, muốn tránh bị máy bay và bộ binh địch truy
đuổi, họ rất cần bóng tối che chở để bơi xuồng rút
êm về căn cứ ...
Đôi trai gái nằm phục tới mười mấy ngày
liền dưới một lùm bần ken kín mít dây dại leo ven kinh
mà thời cơ vẫn chưa đến. Hết đồ ăn dự trữ, tối tối,
anh Hai lại bò ra khỏi lùm cây, lùa rắn nước, vồ chuột.
Hai người che chắn lửa khói thật kĩ rồi mới thay nhau
nướng chuột, nướng rắn làm đồ ăn cho ngày hôm sau.
Nhiều bữa, sau khi xì xoạp tắm gội dưới
kinh lên, thấy anh Hai cứ lặng lẽ hút thuốc rồi lại thở
dài trong đêm Tháp Mười hun hút gió, ngai ngái mùi bùn đất
và nước phèn, chị Tư tủi thân khóc thút thít, biểu sao
anh không hiểu lòng chị chi hết. Hai T là anh biết chớ,
chờ hết giặc nhất định anh sẽ cưới chị làm vợ. Họ
hôn nhau đắm đuối nhiều lần rồi ôm nhau nằm lăn ra ngủ
Về sau, có nhiều người cùng thời nói,
trong những ngày ấy hai người đã sống với nhau như vợ
như chồng vậy. Nói theo tưởng tượng cho vui thôi, chớ
chả ai có bằng chứng gì...
Kết quả là một cái thủy phi cơ của địch
đã bị nổ tung bởi vướng một dây lựu đạn anh Hai T g
qua kinh. Còn hai người thì trở về cứ ở Hồng Ngự an
toàn. Mỗi người được cấp trên thưởng cho một cái
huân chương chiến công hạng ba.
Họ chưa kịp báo cáo chuyện riêng tư cho
đơn vị hay thì anh Hai nhận được lệnh của cấp trên
điều động qua Bến Tre làm đại đội trưởng một đơn
vị vũ trang hỗ trợ cho đồng khởi.
Đêm trước ngày chia tay, Hai T ư Chuột rón
rén xuống một chiếc xuồng ẩn dưới tán một bụi tràm
già. Trăng chao nghiêng. Nước cũng chao nghiêng. Và bao
nhiêu là nước mắt
Sáng hôm sau, đôi trai gái hẹn chờ nhau
mãi mãi và chỉ chịu dứt khỏi nhau khi chiếc xuồng đưa
hai người tới đầu kinh Đồng Tiến. ở đấy đã có sẵn
một chiếc ghe máy nhỏ đang chờ anh Hai. Là người nhậy
cảm, chị Tư đoán trong thời gian tới sắp có những trận
đánh lớn vô cùng ác liệt...
Rồi anh và chị bặt tin nhau. Cũng từ đó,
hoàn cảnh éo le đã đẩy số phận mỗi người về một
phía...
Hôm sau tôi lại đến quán nhậu.
Quán đã có hai thực khách. Ngồi bên cạnh
cậu con trai mát tính là một người đàn bà tóc bạc trắng
như cước. Tôi không đoán nổi tuổi của bà. Nếu dựa
theo khuôn mặt đỏ hồng và đôi mắt sáng, có lẽ bà
đang độ năm mươi. Bà gọi chàng trai là con, xưng má. Má
lấy thêm đồ ăn cho con nghe? à, con thích món cháo rắn chớ?
A, hay là má kêu thêm cho con chai bia nghe?
Chàng trai dạ dạ, vâng vâng, hì hụp húp
tô cháo rắn. Ngon lắm má à! Con nói thiệt đó, ngon lắm!
Ba con chưa cho con ăn món nào ngon thế. Mà sao má đi hoài vậy?
Sao giờ con mới hay mình có má? Con cứ tưởng mình chui ra
từ nách ba cơ đấy! Hi hi, hoá ra má sanh ra con, hi hi...
Hai người ngồi thêm một lát nữa rồi
chào chủ quán, đi xuống một cái thuyền máy lớn. Hình
như đây chính là con thuyền chở khách du lịch chạy lòng
vòng trên kinh rạch Tam Nông thì phải. Nếu có khách yêu cầu
và chịu bao gọn chuyến, thuyền có thể chạy bất cứ
lúc nào, trên bất cứ mọi dòng kinh ngang dọc thuộc đất
Tràm Chim mênh mông nước và tràm này.
Chủ quán nhậu bảo tôi, bà hồi nãy
chính là chị Tư tui kể cho ông nghe tối qua đó ông. Bả
mới ở bên úc về. Nghe nói bà ấy không quên được cái
nắng, cái gió và cái mùi bùn tanh tanh của cái xứ Tam
Nông này. Tui nghĩ đấy là một lẽ. Còn lẽ kia, bả về
là để kiếm ông Hai Rắn
Tôi hặc, ông kể chị Tư là người yêu của
ôõng Hai T i là chiến sĩ hoạt động hồi chống Mỹ, bây
giờ sao lại ở bên úc, lại đi tìm một ông Hai Rắn nào
đó là cớ làm sao?
Chủ quán cười hì hì lấy lòng, bảo:
ông chưa hay T là Rắn ư? Là T i gỉ gì gi là gì cũng được,
mà hay bắt rắn, nhậu rắn thì tên là rắn cũng chẳng hề
hấn chi. ông T ui kể ấy, trước đây có biệt danh là
ông Rắn. Rắn cắn kẻ ác. Thằng ngụy nào nghe tên ông
mà không mất vía? Chỉ có bà con, nhất là chị Tư, tên
thật chị ấy là Tý, Tý tức là chuột ấy mà, cứ nghe
tên ấy là khoái mới đã chớ. Hay thiệt ông nhỉ! Chuột
chỉ mong được rắn bắt! Mà đàn bà mong được đàn
ông yêu thì trúng phóc rồi, có gì để bàn phải quấy nữa
chớ?
ông ạ, chủ quán tiếp, đúng là hồng
nhan bạc phận, đẹp người đẹp nết thế mà sao số chị
Tư cay cực quá. Anh Hai qua Bến Tre chừng ba năm thì có tin
báo ảnh hi sinh. Chị Tư khóc hết nước mắt, thề sẽ không
lấy ai nữa. Cấp trên cử chị về Cao Lãnh tổ chức một
nhóm nội gián trong nội bộ quân ngụy. Rồi chẳng rõ do
yêu cầu của công việc hay vì một căn nguyên trớ trêu
nào đó, ông trời lại sắp cho chị lấy một viên thiếu
tá ngụy. Viên thiếu tá này rất mẫn cán, nhưng do không
chịu nịnh cấp trên nên bị hành phải chuyển hết nơi này
đến nơi khác, lúc về Cần Thơ, lúc lại ra Sài Gòn,
Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh. Năm 1969, mạng lưới nội gián
của ta ở Cao Lãnh bị lộ, chị Tư mất hẳn liên lạc,
không còn ai dám đi lại chỗ chị nữa. Là vợ sĩ quan ngụy,
tới đâu chị cũng bị người ta nhìn với ánh mắt không
mấy thiện cảm. Năm 75, phần thất vọng, phần sợ bị
nghi ngờ là kẻ phản bội, sau khi người chồng chết trận
ở Bảo Lộc, chị Tư vừa khóc vừa dẫn đứa con trai duy
nhất của mình xuống tàu há mồm di tản qua úc. Về sau,
nhờ một tờ báo nước ngoài đưa tin, hình ảnh về trận
chiến ở Bảo Lộc, chị mới hay anh Hai vẫn còn sống.
Anh chính là người chỉ huy quân giải phóng chọc thủng
phòng tuyến do chồng chị đảm nhiệm, mở cửa cho đại
quân tiến về phía Sài Gòn. Bữa ấy, chị đã bị ngất
xỉu; tỉnh dậy, nhiều ngày sau lòng vẫn còn thấy hoang
mang...
Nhiều năm sau nữa, khi con trai chị đã trở
thành một tiến sĩ nông học ở úc, trong những lần về
thăm Tam Nông, chị Tư vẫn ngấm ngầm tìm mọi cách kiếm
anh Hai. Rồi chị cũng dò được tin cho tới năm 1975 ảnh
mới lập gia đình. Vợ anh Hai là y tá thuộc sư đoàn do
ảnh chỉ huy. Chị Hai bị nhiễm chất độc hóa học trong
trận càn của quân Mỹ vào Tây Ninh năm 1969. Chị sinh cho
anh hai đứa con. Đứa đầu là một bé gái, ba tháng nó vẫn
không mở được mắt và mất vào đầu tháng tuổi thứ tư.
Còn cậu con trai của anh, bảy tuổi nó mới biết đi, lại
chẳng có tí trí khôn nào. Nhà anh Hai ở gần một công ti
du lịch nên tình cờ thằng bé đã theo xe xuống được Tràm
Chim. Chủ quán nhậu tui, vốn có một thời làm lính anh
Hai, thấy nó giống ảnh thời trẻ quá trời, mới gọi lại
gạn hỏi rồi cho ăn, cho uống tử tế, lại cho cả tiền
để nó về thành phố. Chị Tư còn biết chị Hai đã mất
từ năm 1983. ảnh ở vậy nuôi thằng bé. Và hình như anh
Hai vẫn còn có ý chờ đợi một ai đó. Chị nao lòng nhận
ra chính mình cũng có ý đó! Chao ôi, xót thay, cả hai đều
đã bước qua tuổi lục tuần ! Mà duyên nợ thì vẫn chưa
dứt được ư, hả trời?
V
Đầu tháng tám, tôi vô tình gặp chủ
quán đặc sản Tràm Chim ở thành phố. ông khoe mùa này cỏ
non mọc xanh mướt khắp các bờ kinh, chuột đồng mập lắm.
Rắn cũng thế. Con nào con nấy lườn cứ tròn căng. Người
đi bắt chuột, bắt rắn chỉ cần lùa chúng chạy từ
các đám cỏ vào lưới, không phải mất công đào hang,
hun khói vất vả nữa. Giá lại rẻ. Rẻ đến bất ngờ
Mấy anh cán bộ huyện, lúc có khách, cũng
thường ghé qua quán tui cho tiện. à, mà cái anh tiến sĩ
con trai chị Tư mới rồi cũng theo má về thăm Đồng Tháp
đó ông. Anh ta cũng mê món thịt rắn nước ra trò. Nhậu
với mấy anh bên huyện, anh ta bảo anh rất kính nể,
không phải vì các ông ấy hay nhậu đâu nha, mà vì bữa
nhậu rất khiêm tốn, bình dân. Người bình dân nhậu chơi
với nhau lấy con chuột, con rắn làm mồi cốt chỉ vì
tình. Mấy ông còn nhậu bình dân thế, tức là còn nghèo,
còn liêm khiết lắm, gần dân lắm. Rồi anh ta hứa sẽ
góp tiền góp trí giúp Tam Nông sống chung với lũ. Lạ lắm
ông ạ, lo nhà cho người ở đã đành, mấy ông cán bộ
huyện còn bàn với anh tiến sĩ kia lo chỗ sống cho chuột
cho rắn nữa thì tui chưa nghe ai nói bao giờ
Nhưng nghĩ mãi thì thấy cũng có lí. Từ
bao đời nay, con rắn con chuột là thiên địch của nhau mà
chúng vẫn sống bên nhau được. Đành rằng con rắn có
ăn con chuột đấy, nhưng có giống nào bị tuyệt diệt đâu?
Lại nữa, cứ nói chuột là loài phá hoại lúa; nhưng mùa
nước thiếu chuột thì lấy thịt con gì mà nhậu lai rai
chờ nước rút? ở đâu tui không hay, chớ ở Tam Nông, tui
nghĩ tầm bậy tầm bạ rằng, con chuột con rắn cũng là
những con vật nuôi đó ông ơi. Nhưng trời lấy cỏ, lấy
lúa, lấy tôm, cua, lươn, ếch mà nuôi chúng nó ! Trời vỗ
béo chúng nhưng mấy cha hứng tình lại làm thịt để nhậu
chơi
Tôi ngỏ ý mời ông chủ quán Tràm Chim về
nhà chơi.
Ông biểu, không, tui phải đi cho được việc
cái đã ông ạ. Thôi chết, gặp ông mải nói chuyện chuột
chuyện rắn mà quên phắt đi chưa nói chuyện người là
cái thằng tui dở ẹt quá cỡ thợ mộc rồi. Hồi nãy
ông hỏi tui lên thành phố mua bán cái chi chi đó phải
không? Không, tui lên đây chỉ để dự đám cưới. ông
còn nhớ chuyện chị Tư không? Nhớ? ừa, tui đi đám cưới
bả với ông Hai Rắn đó. Bà ấy hồi hương rồi. Bả
thương thằng nhỏ nhà anh Hai dữ...Hay là ông cùng đi cho
vui? Rồi về Tràm Chim nhậu chết bỏ với tui vài ngày cho
đã? ông cũng cỡ lục tuần rồi nhỉ? Nhưng mà còn trai
chán! Còn nhai được cả trăm chú mãng nữa chớ bộ...
Tôi cười, lòng nhói thương anh chị Hai và
những chiếc xuồng chòng chành trên sóng nước. Và nhớ tới
đàn sếu đầu đỏ. Trong những ngày bám Tràm Chim, có một
lần tôi đã nhìn thấy chúng rồi thầm nghĩ: đó chính
là loài hồng hạc báo vui buồn trong thơ Nguyễn Đình Chiểu?
Tôi còn biết hồng hạc rất thích củ năng
Đồng Tháp. Thứ củ mọc hoang ở đồng nước nổi này
khiến cả người, chuột và rắn đều mê.../.