Ông bà cha mẹ tôi đều là nông dân. Tôi sinh
ra và lớn lên ở làng. Tôi ra đi cũng từ
làng. Ba năm quân ngũ tôi đóng quân ở thành
phố. ở cái nơi mà ánh sáng ban ngày, ánh
điện ban đêm đều như nhau cả. Tôi
không hoà nhập được với cuộc sống
thị thành. Muốn học theo một cái gì đó
lại thấy mình như thằng bé hớn hở
đuổi theo bao điều phù du không có thật.
Chỉ một vẩng trăng mười bốn
cũng làm tôi thèm đến quay quắt cả
người. Một đêm đứng gác cổng
doanh trại tôi hỏi thằng bạn. "Mày biết
bây giờ tao thích cái gì nhất?". "Một
con gà quay và mấy cốc Tiger". "Sai bét.
Được chạy dưới trăng, ngửa
mặt nhìn trời, hít căng lồng ngực".
Nó cười và cho tôi là "vẽ chuyện".Bây
giờ thì tôi đã về với làng. Làng tôi như
nửa vành trăng nằm trong khúc vòng cung của
con đê ngăn nước lũ. Ngước mặt
lên là nhìn thấy núi, núi cao vời vợi. Cúi xuống
thấp hơn là gặp được sông, sông
trôi lờ lững. Quay phải, quay trái đồng
ruộng trải dài.
Mưa.
Mưa vũ vã.
Mưa trắng trời. Làng ngập nước
trong ánh chớp loà và tiếng sấm sét rền
vang. Ngoài đồng nước trắng mênh mông.
Tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu ộp oạp.
Và côn trùng eo ỉ. Đồng quê như tấu lên
một bản nhạc buồn buồn. Ngày đầu
tiên tôi trở về làng là như vậy. Bà nội
cứ thở ngắn thở dài, cẩm rẩm. Bà
nói với mọi người mà như nói một
mình vậy. "Giời với chả đất.
Lúa má ngập sạch mất. Của ăn đến
miệng rồi ông giời cũng không tha". Rồi
bà lọ mọ ngồi giã trầu bằng chiếc
cối đồng bé tý. Mùi trầu cay cay quyện
vôi thấy nồng nồng ấm ấm sực cả
gian nhà. Bỏ miếng trầu giã nát tươm vào
mồm bà lại bảo "Ngày xưa thế này
cầm chắc mất mùa". Mẹ tôi cười
giả lả "Bà lại ngày xưa rồi. Con
cháu nghe mãi". Mà đúng thật bà kể lể
thôi là kể lể. Nào đời bà cực lắm.
Đi làm dâu từ năm 13 tuổi. Lỡ đánh
cái rắm mà xấu hổ bỏ về nhà mấy
năm giời. Ai xuống gọi cũng trốn biệt.
Đến khi mẹ chồng xuống nịnh nọt
mãi mới chịu về nhà chồng. Mới đầu
vợ chồng mấy tháng không dám nhìn mặt
nhau. Đến đận ông đi bộ đội
mới dám gần gũi với nhau rồi ông lại
đi biền biệt suốt. Bà đẻ bố tôi
mấy tháng ông mới được về. ở
nhà chơi với con vài ngày ông lại phải
đi, nghe đâu lần này ông theo đơn vị
đi xa lắm. Bà tôi hay kể lại rằng lúc
ấy mới khoảng cảnh ba ông bấm vào tay
bà rồi hai người trở dậy. Bà khẽ
đặt thằng bé (là bố tôi) xuống ổ
rơm cho mẹ chồng rồi khoác tay nải lách
cửa đi theo ông ra tận đường lớn.
Lúc xuống đò ông ngoái lại dặn: "Nhà
ở lại trông nom mẹ già và con nhỏ, tôi
đi đợt này có dễ...". Rồi bà có
mang cô Tâm ba tháng thì được tin ông hy sinh.
Bà phiền muộn nên cô Tâm đẻ ra ốm
đau, sài đen mãi. Bà khổ quá. Lấy chồng
chưa biết nhớ, biết thương thì
đã thành goá bụa. Bố mẹ tôi thương
bà lắm. Tôi lớn lên đã quen nếp nghĩ bà
nội tôi hiền từ nhân hậu nhất làng.
Tôi khôn dần bằng lời ru bà cất lên với
điệu ngân ai muôn thuở.
Mưa ngớt dần rồi tạnh hẳn. Ngoài
hiên nhà những giọt nước nhỏ tý tách
xuống máng tôn đều đều như gõ nhịp.
Tôi không biết mình đã thiếp đi từ lúc
nào. Gần sáng tỉnh dậy, trăng hạ tuần
xuyên qua cửa sổ chiếu vào giường lành
lạnh. Bố đã dậy từ lúc nào. Bố vừa
hút xong điếu thuốc lào đang ngồi nhả
khói. "Sao bố dậy sớm thế".
"Mày ngủ nữa đi. Con nước to lắm.
Tao phải ra đê xem thế nào". "Bố
cho con đi với". Tôi vùng dậy với bộ
quân phục mặc vào người rồi bước
theo bố.
Ba năm trước lúc chưa đi bộ đội
tôi cũng đã có những buổi đi canh đê
chống lụt như thế này. Đêm nghe nước
thon thót trở mình. Thấy mênh mang, mênh mang một
nỗi buồn lo về vụ tới. Rồi những
người đàn bà khi xúc gạo nấu cơm họ
không quên bốc lại một nắm. Người
nông dân lúc nào cũng lo mùa màng thất bát. Điếm
canh đê hôm ấy bọn con gái mang theo cả
khoai lang luộc và ngô rang. Con trai chúng tôi chúi đầu
vào đám tiến lên. Ăn, uống, chơi bài
chán chúng tôi lôi tiếu lâm ra kể cho nhau nghe. Hôm
ấy tôi đã kể rằng: "Có một đôi
nam nữ yêu nhau, họ đưa nhau ra đồng
lúa ngồi hóng mát. Ngồi mãi mà chẳng ai nói
được câu nào. Anh con trai bảo: Lúa năm
nay tốt nhỉ? Người con gái: Phân mà lị.
Người con trai: Trăng hôm nay sáng nhỉ? Người
con gái: Rằm mà lị. Rồi cuối cùng người
con trai bảo: Hôm nay em xinh thế! Người con gái
trả lời: Yêu mà lị". Cả lũ cười
nghiêng ngả. Anh luyện xã đội trưởng
quát: Chúng mày đi gác đê hay ra đây cười.
Rồi chính anh cũng lăn ra cười và bảo
tôi "Thằng này khá". Những đứa con
gái ngày ấy bây giờ đều đã lấy
chồng. Mấy năm qua mà quê tôi hầu như
không có gì thay đổi. Cuộc sống có thể
khác đi nhưng ao bèo, hồ sen, ruộng lúa thì
vẫn vậy.
Bố con tôi ra đến đầu đê đã
nghe tiếng máy bơm chạy sình sịch. Ngoài
sông con nước xuống dần. Trong điếm
canh đê mọi người đã về ngủ hết.
Khu trạm bơm mười hai vòi nước phun
trắng xoá. Bố tôi nói oang oang với mấy anh
trạm bơm "ấy chà! Định nghiêng
đồng đổ nước ra sông hả?".
Chợt giọng ai đó với ra "Chào chủ
nhiệm! Nước xuống nhanh lắm, chỉ
chiều mai cây lúa lại bình yên!". Bố vừa
đi vừa lẩm bẩm. "Nước rút cũng
mau, năm nay mưa không kéo dài nên cũng đỡ".Mờ
sáng bố con tôi mới về đến rìa làng.
Làng quê vẫn còn yên tĩnh. Quang cảnh như vừa
hiện ra trong trẻo và mát mẻ. Phía chân trời
hừng đông đã ưng ửng. Trăng lặn
từ lúc nào. Trên trời một vì sao mai nhấp
nháy. Đầu kia tốp người ra trông nước
đang nói cười hể hả. Qua xóm trại,
dưới nếp nhà thấp sau lùm tre, có bóng người
trong ngõ đi ra. Bố tôi lên tiếng:
- Cô Hà đấy à? Đi đâu mà gồng gánh
sớm thế?
- Bố con bác đi ngó nước về. Em
đi bán mấy con lợn giống. Đói kém
đến nơi rồi!
- Thôi mang về đi. Mai sang tôi lấy mấy
thúng thóc cho các cháu ăn tạm. Lúa đã chắc
đòng rồi.
Cô ngập ngừng rồi quay lại. Dáng tảo
tần khuất dần sau lùm tre.
Trời thu cao lồng lộng. Heo may về sớm.
Con lũ sớm qua nhanh. Dòng sông quê tôi lại hiền
hoà êm ả. Mấy con đò sang sông sớm chiều
tấp nập. Làng tôi rổn rang bước vào
mùa cưới. Hôm nay đám cưới chị Hoà.
Bố tôi sang làm thịt lợn từ sáng sớm.
Tôi sang đến nơi thấy các bà, các cô
đang lau bát đĩa, ngoài sân mấy người
gọt bí, thái măng tấp nập. Trong nhà chị
Hoà đang gấp áo gối sai người mang
đến nhà trai. Quê tôi con gái lấy chồng có
viên mãn hay không cứ nhìn vào gối cưới thì
thấy. Họ tự tay mua vải rồi nhờ vẽ,
tự thiêu, tự móc và cặm cụi nắn nót
như gửi gắm cả đời con gái. Chị
Hoà hỏi tôi mà đầu vẫn cắm xuống
cái áo gối.
- Mày ra quân rồi à! Có định đi đâu
không hay ở lại quê?
- Thì em đang đứng trước mặt chị
đây.
- Tao hỏi sau này cơ.
- Em ăn mòn bát đĩa thiên hạ rồi,
không ở đâu bằng quê mình.
- Tao biết vậy mà.
- Thế chị đã lát gạch đường
làng chưa?
Không trả lời tôi, chị Hoà cười tủm
tỉm. Con gái quê tôi dù lấy chồng ở làng
hay lấy chồng thiên hạ, mỗi người
đều lát một trăm viên gạch xuống
đường làng để đánh dấu ngày
chấm dứt thời con gái. Tục lệ ấy
có từ lâu lắm rồi. Bà tôi ngày xưa
cũng như thế, đến lúc các chị gái
tôi cũng vậy. Chẳng hiểu con đường
ấy được bắt đầu từ đâu
và tục lệ ấy đã bắt đầu từ
bao giờ, chỉ biết rằng đường
đi khắp ngõ xóm vươn dài mãi một màu
nâu bóng.
Quê tôi trai gái ít bỏ làng mà đi. Ngoài việc
đồng áng, con gái quanh năm cắm cúi làm
hàng thêu xuất khẩu nên bàn tay cũng nuột nà
nhưng dáng ngồi thì gù hẳn xuống. Đàn
ông có nghề đóng gạch, xây nhà và bán ra
thiên hạ. Làng tôi đẹp hơn có lẽ một
phần bởi những bàn tay nhỏ nhắn thêu
thùa và những đôi chân dẫm đất vào
lò chắc nịch.
Làng tôi bao đời sinh ra những cô thôn nữ
đẹp dịu dàng như dải lụa. Các cụ
bảo ngày xưa khi còn là Tổng cũ mỗi
năm làng đều có con gái đẹp để
tiến vào cung vua. Rồi các cụ lại bảo
ngày xưa khúc sông Hoàng Long uốn quanh làng chỗ
bãi cát bây giờ những hôm trở trời thật
để được nhìn tận mắt bầy
tiên tắm nhưng chả thấy bao giờ. Chuyện
tiên tắm thì không biết có hay không nhưng dòng
sông quê tôi thì lạ thật. Lúc sáng sớm mặt
nước loang loáng khói bốc mù mịt. Buổi
trưa khi có ánh nắng chiếu xuống, mặt nước
tím sẫm lại. Rồi chiều về dòng nước
lại trong veo mềm như dải lụa xanh.
Nắng hanh vàng, gió hây hẩy. Heo may về hơi
lạnh đã thấy săn da. Vắt qua cánh đồng
xa tít tắp trước làng là con đường
lớn. Hai bên đường là hàng cây mà các trai
làng trồng lưu niệm trước lúc lên
đường, dù là đi học hay đi bộ
đội. Cây xà cừ tôi trồng cách đây 3 năm
trước bây giờ đã vươn cao, cành lá
um tùm, mướt mát xanh, tươi tốt. Dưới
vệ đường mọc đầy cỏ may.
Lúa là người bạn của nó. Khi lúa chắc
đòng thì cỏ may xanh mướt. Sương thu
lãng đãng trôi qua như khoác lên mình nó một tấm
áo bàng bạc mờ mờ, ảo ảo. Nắng
thu trải dài trên cánh đồng, rắc lên hoa cỏ
may như những giọt sương lấp lánh.
Tôi lang thang trên cánh đồng. Sương mù lãng
đãng trôi trên đường. Những bước
chân bỗng nhẹ tênh như đưa tôi đến
một niềm mơ ước mới. Phía cuối
kia nắng vàng yếu dần. Hoàng hôn thu hình như
buông chậm. Tiếng chuông chùa bên xóm đạo
thánh thót ngân nga. Tôi đang đến với Mỵ.
Con đường này Mỵ đã kể cho tôi
nghe câu chuyện đàn ông, đàn bà trên trái
đất. Dù đã biết từ lâu rồi nhưng
câu chuyện em kể tôi nghe như mới lạ:
Ngày xưa thánh Ala chỉ sinh ra trên trái đất
một người đàn ông. Ba mươi vạn
năm sau người đàn ông đã tìm gặp
thánh Ala tâu rằng "Tâu đức thánh tối
cao. Con cô đơn quá không sao sống được".
"Người cứ về đi và sẽ không
còn cô đơn nữa", và trái đất có
thêm một người đàn bà. Ba mươi vạn
năm nữa người đàn ông lại tìm gặp
thánh Ala "Lạy đức thánh cao cả. Nó lắm
mồm quá con không thể sống nổi".
"Người cứ về đi sẽ không còn
ai lắm mồm nữa đâu". Người
đàn ông trở về trái đất thấy
người đàn bà đã biến mất và ông
ta cho đó là điều thật may mắn.
Nhưng một lần nữa sau ba mươi vạn
năm người đàn ông lại tìm gặp
thánh Ala "Thôi lắm mồm cũng được.
Xin thánh Ala cao cả. Hãy cho người ấy về
với con". Rồi phải mất hàng triệu
năm sau nữa và thêm rất nhiều lần trả
giá, người đàn ông và người đàn
bà mới tìm được tiếng nói chung... Có
lúc tôi muốn nghĩ người đàn bà đó
là Mỵ, có lúc lại không. Tôi yêu em nhưng gia
đình tôi băn khoăn vì em là con gái đạo,
em là con của Chúa. Cả cánh đồng dưới
chân tôi mênh mang ngân lên một khúc hát. Bộ hồ
sơ xin việc của tôi nó đang nằm ở
đâu? Tôi đã quên tự lúc nào. Làn gió heo may
se se dạo qua cánh đồng bát ngát. ánh trăng
lên cao buồn cô liêu, nửa dỗi hờn, nửa
như chờ đợi. Sắp đến giữa
thu rồi. ánh trăng vằng vặc rạng rỡ
toả khắp cánh đồng, tôi lâng lâng lăn
người ra cỏ. Tôi dang tay ôm cả bầu trời.
Cỏ dưới người tôi ấm mềm như
nhung lụa. Đồng lúa rầm rì nghe như tiếng
hát xa xôi. Tiếng hát hiến dâng cho con người
những phút giây huyền diệu nhất. Xung quanh
tôi nồng nàn mùi đất ẩm. Đất sinh
ra con người, con người nặng lòng với
đất. Mỵ ngớ ngẩn hỏi tôi rằng:
Mai sau đất khô cằn hết chất, con người
sẽ sống bằng gì? Lòng đất sẽ mở
ra đến vô tận và vô cùng Mỵ ạ.Ngoài
sân đình rộn rã tiếng cười. Tiếng
trống ếch thì thùng mời gọi. Vầng trăng
như tròn hơn, sáng hơn. Mỵ nắm chặt
tay tôi chạy ra phía ấy. Điệu múa sạp
gọi tuổi thơ của chúng tôi về thổn
thức. Tôi bảo:
- Mỵ còn nhớ ngày xưa lúc nhảy sạp
Huy hay hát xuyên tạc rồi bị mắng không?
- Bây giờ Huy hát lại đi.
Mỵ cười rồi bắt tôi hát lại
"Bà già bà chê tôi già. Bà già bà chê tôi đen. Tôi
đen tôi lấy người đen. Tôi đen lấy
chi con bà...". Ngày ấy lũ trẻ chúng tôi
đã chơi đùa thâu đêm cùng gió, cùng mây,
cùng trăng... Còn bây giờ tôi đang đứng
đây. Tôi và em giữa mênh mông trăng toả.
Trăng rực rỡ, gió mát rượi cất tiếng
gọi thu nghe dịu dàng như lời con gái. Từng
đôi nam nữ đan tay vào nhau bước rộn
ràng theo nhịp gõ. Xòn xòn xòn đô xòn. Xòn xòn
xòn đô rê. Rê rê rê mí xì rê. Rê rê mí rê đô
là... Những bước chân gái trai uyển chuyển.
Tôi nắm chặt tay em, bàn tay mềm mại của
em trong tay tôi có chút dịu dàng của mùa thu, rợp
mát của mùa hè và nồng nàn của mùa xuân. Trăng
khuya treo tít trên trời. Tôi muốn đêm thu dài
ra mãi. Trời đừng sáng trăng, cứ thế
này lung linh và huyền ảo. Mỵ lại hỏi
tôi câu hỏi ngày xưa em chưa biết: chân trời
bắt đầu từ chỗ nào? Chân trời bắt
đầu từ nơi con người sinh ra.
Buổi chiều cuối thu cả cánh đồng
phủ sương bàng bạc. Phía xa kia là chân trời
rực hồng ráng đỏ. Bố đi thăm
đồng, bóng bố tôi ẩn hiện dưới
hàng cây, bố cầm trên tay nắm lúa vàng hây hẩy.
Nét lo toan thường ngày trên mặt bố giãn
ra. Đâu đó tiếng gọi í ới lao xao trong
ngõ xóm. Lòng thấy vui vui như một điều
gì quan trọng lắm vừa mới định hình.
à thì ra là hương lúa. Cái mùi ngai ngái, ngòn ngọt
quấn quýt bước chân người về. Chiều
thu suộm lại như một dải vàng óng ánh
trên cánh đồng. Trong hoàng hôn cỏ may hai bên
đường hung hung thẫm lại. Giọt nắng
cuối ngày lẫn vào mắt lúa. Cả cánh đồng
rì rào đuổi nhau theo gió xô bờ như những
lớp sóng vàng xô vào bờ. Tôi bước đi
mê man giữa những lớp lúa hai sương một
nắng của mẹ. Bắt chước bà nội,
tôi rứt một cọng lúa vàng đưa lên môi
nhấm nháp, thấy vị ngọt tê tê đầu
lưỡi, hương thơm ngan ngát dâng lên nghe
hồn mình lắng đọng.Buổi chiều bà
nội giục mẹ mang liềm, hái ra lau lại.
Rồi bà ngồi nhai trầu. Nhìn ánh mắt hấp
háy của người già tôi biết bà đang vui
chờ vụ lúa mới, mặc dù lúa cũ còn
đầy cả cót trong nhà. Bà nhắc mẹ hái
cho bà một nắm lá thơm đủ loại: Mần
chầu, ngải cứu, lá tre, lá sả... Mẹ thả
tất cả lá thơm vào nồi to đun nước
để bà tắm gội. Bà lên giường nằm
và bà ngủ mãi. Bà nội tôi ra đi như vậy.
Thanh thản nhẹ nhàng như đi vào cõi Phật.
Đám tang bà, bố tôi mặc áo xô đầu
đội nùn rơm, thắt dây chuối ngang thắt
lưng, chống gậy đi giật lùi sau linh cữu.
Mẹ tôi, cô Tâm khóc vật vã. Các chị gái toi
khóc ròng ròng. Lúc đưa bà ra đồng mặt
trời đã lên cao, nắng chan hoà toả khắp
thôn xóm, cánh đồng. Sau quan tài có cả các
bác, các chú đại diện cho Mặt trận Tổ
quốc xã, ban quản trị Hợp tác xã, cùng rất
đông các cụ ông, cụ bà và xóm làng
đưa tiễn. Các cụ già bảo "Cụ
ăn ở phúc đức lắm nên lúc theo tổ
tiên mới nhẹ nhàng như vậy". Tôi không
thể tin hẳn bà nội tôi đã mất vĩnh
viễn. Đứng bên linh cữu bà, tôi lại như
thấy mình bay lên. Tôi bay vào một miền cổ
tích, ở đấy bà tôi đang kể chuyện
"Giếng mắt rồng", truyện "Mẹ
lúa"... Tôi không khóc mà nước mắt cứ
trào ra thành một dòng lăn dài xuống cổ áo
bộ đội bạc... Người ta đặt
bà trong bãi tha ma của làng. Mọi người chen
nhau vào ném xuống huyệt những hòn đất
ướt. Ai đó ấn vào tay cô Tâm một nắm
đất, cô thả nhẹ xuống rồi lại
dụi dặm khóc: "Mẹ ơi từ giờ
con biết tìm mẹ ở đâu...". Trên mộ
bà có mấy vòng hoa, một bát cơm thật đầy
cắm đôi đũa và quả trứng gà luộc.
Sáng hôm sau mọi người làm cơm cúng ba ngày
cho bà. Nhìn mọi người vào ra tấp nập
tôi chắc tưởng tượng thấy dáng bà
lom khom, lọ mọ ở góc nào. Tối ấy mọi
người về hết, mẹ tôi bảo bây giờ
chắc bà gặp được ông rồi. Bố
vẫn gục đầu xuống hai gối giọng
thì thào nghe thật xa xôi "Thương bà quá, cả
một đời lo cho con cháu". ở nhà vài
ngày cô Tâm tôi lại về Hà Nội. Trước
khi đi cô thắp hương rồi gục xuống
bàn thờ bà nức nở: "Hi... hi... mẹ
ơi, nếu như mọi ngày mà còn chuẩn bị
đi thế này là mẹ săm sắn lo cho con rồi
đây mẹ ơi... Ư... ư". "Bố tôi
dắt chiếc xe cúp 81 ra sân rồi dặn:- Mày
đèo cô ra bến, đi đứng cho cẩn thận.
Quay sang cô, bố tôi nhẹ giọng:
- Thôi em ạ, đằng nào thì mẹ cũng
đi rồi. Anh em đùm bọc nhau.
Mẹ tôi quay vào lau nước mắt. Cảnh
nhà trống vắng quá. Tất cả lại cuốn
đi. Công việc nhà quê đang mùa gặt hái. Bố
lại vắng nhà luôn, lúc ở ngoài đồng,
khi lên Uỷ ban, hôm lại xuống huyện họp.
Mẹ con tôi tất bật mùa màng. Trời xầm
xì nặng trịch cũng là lúc những gánh lúa
cuối cùng mang về nhà gọn ghẽ.
Phía xa kia là chân trời nhuốm một màu vàng
xuộm. Trên cao hơn nữa mây cuồn cuộn như
một núi bông xốp xộp. Chân trời phía
ấy sương xuống lạnh hơn. Một nỗi
buồn da diết choán ngập lòng người. Cả
cánh đồng đã gặt hết còn trơ gốc
rạ. Mặt ruộng nứt toác ra, những chỗ
đã cày ải rực lên một mùi đất mới.
Mùi nồng nàn đằm thắm thiết tha. Đấy
là mùi hương quyến rũ nhất của
đồng quê ban tặng con người.
Con gió chiều cuối thu xào xạc. Mấy chiếc
lá vàng bay bập bênh như nỗi chia xa của mùa
thu, khẽ chao nghiêng rồi rơi luôn về cội.
Trên ngọn tre mấy cánh cò chấp chới, dập
dờn, dập dờn trốn vào thinh không cao ngút
ngát. Xa xa tiếng sáo ngập trời huyễn hoặc.
Không gian chứa chan sự yên bình bí ẩn. Diều
nhà ai ở tít trên cao, chui vào giữa những
đám mây bồng bềnh, chỉ còn tiếng sáo
vẫn ngân nga, da diết. Đó là những khúc
hát của đồng quê thả lên nền trời
một bài ca bất tận./.
Vũ Minh Nguyệt