Mặt sông buổi chiều còn loang một vệt mặt
trời mầu cam đỏ. Gió nồm thổi hiu hiu. Hai đứa tôi dắt
tay nhau đi lững thững đến một bãi cỏ mé bờ sông. Hạnh
đòi ngồi xuống. Cỏ xanh rì và ướt lạnh vì đang mùa mưa.
Tôi loay hoay rút một chiếc dép lót ngồi. Hạnh xòe bàn
tay vuốt nhẹ lên mặt cỏ, gương mặt trẻ trung sáng lên
với cái nhìn trìu mến:
- Chị Hà có thích cỏ hôn? Em thích cỏ
ghê nơi!
Có khi tôi cũng thích cỏ lắm. Cỏ nói
chung thì đa dụng. Với cỏ người ta có thể làm thơ, làm
thuốc nam, làm phân xanh, hay làm cái thứ gì nữa, chẳng
biết. Nhưng bình thường thì tôi không cảm tình với cỏ
nhiều. Nhất là những ngày nghỉ tôi về thăm ông ngoại
và phải ra vườn làm cỏ với ông. Vừa làm cỏ, vừa
nghe ông đọc thơ Lục Vân Tiên và giảng đạo lý làm người.
Hạnh vẫn âu yếm đùa với những lá cỏ:
- Thế nào mỗi thứ cỏ cũng có một cái
tên chứ, chị? Sao em chẳng thể nào biết tên các loài cỏ.
- Hồi xưa nhà chị có một bộ "Cây cỏ
miền Nam", trong đó có vô số cỏ, thứ nào cũng có
tên họ đàng hoàng. Có lần chị ra vườn nhỏ đủ loại
cỏ vô giở sách ra xem chúng tên gì. Rốt cuộc, chị cũng
chẳng nhớ được tên cỏ nào hết.
Hạnh trầm ngâm vài giây:
- Mai mốt xuất ngũ, em sẽ đi trồng cỏ.
Và Hạnh cười hồn nhiên, đôi mắt
thoáng màu cỏ xanh mơ ước. Nhìn Hạnh, tôi không nghĩ đó
là một câu nói đùa, nhưng tôi cũng không quan tâm đến cỏ
cho lắm. Tôi hỏi:
- Chừng nào em xuất ngũ?
- Em không biết. Em chưa định xuất ngũ lúc
này. Nhưng một lúc nào đó, thí dụ em không còn sức khỏe
để phục vụ trong quân đội, hay chiến tranh chấm dứt
chẳng hạn, thì em sẽ xin làm người trồng cỏ.
Tôi thở dài nhìn đứa em họ. Tóc Hạnh
đã cắt ngắn. Còn vóc dáng, da dẻ vẫn bình thường. Hồi
ở nhà, Hạnh cũng nhỏ nhắn, ngăm ngăm đen như vậy. Cái
nhìn vẫn trong sáng, nụ cười vẫn thơ ngây. Vậy mà tôi
nghĩ, sau ba năm đi bộ đội, chắc Hạnh đã trải qua những
gì kinh khủng nhất của chiến tranh. Khi Hạnh vào bộ đội
và xin sang công tác ở nước bạn, họ hàng tôi ai cũng phản
đối và xem Hạnh như một đứa con gái bất bình thường.
Chơi với Hạnh từ nhỏ đến lớn, tôi chỉ âm thầm cảm
thông với những lý do đã thúc giục Hạnh hành động, chứ
cũng chẳng dám nói gì. Người ta thường nói, ở lứa tuổi
mười tám đôi mươi của đời người, có những ngọn lửa
bùng cháy lên trong tim, rồi nhanh chóng lụi tàn đi, hoặc
cháy mãi mãi, thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Những
ai đã qua rồi cái tuổi đó, lỡ để tắt rồi ngọn lửa
ấy, sẽ chẳng thể nào hiểu được những trái tim trẻ.
Tôi chỉ hơn Hạnh một tuổi, những lúc nghĩ về Hạnh vẫn
nghe lòng mình náo động những khao khát một cuộc sống
anh hùng, một cuộc đời cao đẹp. Từ khi Hạnh đi đến
giờ, hai đứa tôi mới lại được gặp nhau, khi tình cờ
cùng về thăm ông ngoại. Hạnh trước mặt tôi, chẳng có
nét gì của người nữ anh hùng như bà Trưng, bà Triệu,
hay nữ thánh Jane, như phác họa trong trí tôi. Vẫn giọng
nói nhỏ nhẹ, tiếng xưng em ngọt ngào, và nguyện vọng tầm
thường nhất trong thiên hạ, "làm người-trồng-cỏ".
Nước triều đang dâng từ từ. Tôi thòng
chân xuống, nói với Hạnh là chừng nào nước dâng ngập
đến mắt cá chân tôi, thì mình phải về nhà. Lúc sẫm tối,
gió ngoài sông thổi vào lạnh lắm. Nhưng Hạnh muốn ngồi
chơi lâu hơn nữa, và nói chuyện hoài về những loài cỏ.
- Em chỉ biết tên cỏ-dế-ăn thôi. Tự
vì hồi nhỏ em hay theo tụi bạn trai đi hái cỏ về cho dế
ăn. Dế thích cỏ này lắm. Trông cỏ mảnh mai, dài thon thả,
màu xanh biếc, ngon lành hết sức. Có lần em cũng thử
ăn...
Hạnh đưa một cọng cỏ vào miệng nhấm
nháp. Tôi biết là cỏ gấu, nhưng vẫn chấp nhận cái
tên cỏ-dế-ăn của Hạnh. Mặt trời đã lặn tự bao giờ.
Để Hạnh thôi nói về cỏ, tôi hỏi:
- ở bộ đội có gì vui, kể chị nghe với!
- Kể chị nghe chuyện gì?
Hạnh nhìn ra sông như tìm chuyện.
- Hồi ở Bộ tư lệnh là nhiều chuyện
vui nhất. Cả đám nữ tụi em mới xa nhà, tha hồ nghịch
ngợm, ca hát. Mấy chú biểu đồ con nít mà cũng bày đặt
làm đơn xin ra biên giới.
- Rồi làm sao em lại được ra biên giới?
- Em xin riết phải cho. Đến khi ở bên nước
bạn, nhiều khi em thèm một người bạn gái để nói dóc
dễ sợ. Vì cả đơn vị chỉ có mình em là nữ. Có những
điều của con gái chẳng biết chia sẻ với ai hết. Lần
đầu tiên em hành quân, cả một đội quân đi dài thòng
mà chỉ có một mình em là con gái, lại mới đến. Đường
dài mười mấy cây số xuyên rừng và đồng lầy. Đang
đi em mắc tiểu quá chừng mà chẳng biết làm sao. Em
không dám kểu cả đội quân dừng lại chờ em đi tiểu.
Em không dám một mình tụt lại phía sau. Em ráng đi lẹ lên,
cử động nhiều cho đổ bớt mồ hôi ra. Bụng dưới cứ
tưng tức anh ách khó chịu ghê đi. Em cố dụ lòng mình
là ráng chút xíu, chút xíu nữa thôi. Càng bước, bụng em
càng nhói nhói đau, muốn khóc luôn. Mà em không dám để lộ
ra, không dám nhăn mặt nữa, sợ mấy anh cười, hiểu lầm
em chưa quen đi bộ. Em mở mắt nhìn chỉ thấy hào quang đổ
xanh đổ tím. Mấy bận em sợ điếng người luôn, cứ lo
mình nín quá, bể bàng quang mà chết!
Hạnh bật cười như tự cười cái lo sợ
của mình:
- Vậy mà rồi, em cũng đi tới nơi tới chốn.
Dần dần em thấy sức chịu đựng của con người thiệt
lớn. Có những điều khi chưa trải qua mình cứ tưởng
tượng ra mà phát sợ. Nhưng bây giờ thì em hiểu rằng
trên cõi đời này không có gì khủng khiếp cả, khi lòng
mình vẫn còn tin yêu cuộc sống. Hồi trước em sợ bom đạn
và nghĩ rằng nếu bị thương chắc chết quá. Đến khi chính
em bị thương, em lại không thấy đau đớn như đã tưởng.
Tôi ngắt ngang Hạnh, tò mò:
- Em đã bị thương rồi sao?
Hạnh cười, lắc đầu:
- Nhẹ thôi, không đáng gì hết.
- Kể chị nghe đi.
Hạnh không chịu kể. Hạnh thích tiếp tục
chuyện đang nói về cuộc sống ở bộ đội.
- Để lát nữa em kể. Năm ngoái em đóng
ở một phum đã bị phá hoang tàn. Có một cái giống cái
ao, vài cơn mưa đầu mùa đọng lại vũng nước trong đó.
Các anh bộ đội vét đáy ao để chứa nước những cơn
mưa sắp tới. Từ dưới lòng ao vét lên bao nhiêu là đầu
lâu, xương tay, xương chân, xương sườn lớn nhỏ, dài ngắn
đủ cỡ. Vậy mà hôm trước mới đến, thiếu nước dùng,
cơm canh tắm giặt gì cũng ao nước đó. Lúc ấy em lại
đang kỳ kinh nguyệt, cũng ao nước đó, rửa ráy, giặt giũ...
Tôi rùng mình, một cảm giác ớn lạnh chạy
dọc xương sống. Hình như gió từ sông lớn thổi về rồi.
Tôi kéo tay Hạnh:
- Thôi, về nhà. Tối rồi.
Hạnh đứng dậy, ngẩng nhìn bầu trời
cao rộng mênh mông mới lác đác vài vì sao.
- ở nhà, chị có hay nhìn lên trời để
đếm những vì sao không?
Tôi không thích đếm sao, vừa mỏi cổ, vừa
nhức đầu. Những vì sao bình thường thì vẫn đâu ở đấy,
nhưng khi mình đếm, chúng cứ chạy lung tung. Nhưng tôi vẫn
đáp có. Hạnh nắm tay tôi đứng dừng bên bờ sông. Bàn
tay Hạnh ấm, hay vì bàn tay tôi buốt lạnh, tôi cũng không
rõ nữa. Hạnh chỉ cho tôi xem:
- Kia là sao chiến sĩ, mũi lưỡi kiếm chỉ
hướng Nam. ở nước bạn, mỗi lần nhìn lên bầu trời
em lại nghĩ rằng nếu mẹ mình, em mình, bạn bè mình đêm
nay nhìn lên trời, sẽ thấy những vì sao sáng mà mình
đang nhìn đây. Những lúc nghĩ vậy, em cảm động muốn
khóc. Và thấy mình gần gũi với những người thân thuộc
hết sức.
Hai đứa tôi đứng yên đến mấy phút để
ngắm bầu trời thăm thẳm, nghe chung quanh bóng tối đen dần.
Hai chị em, suýt soát tuổi nhau vẫn thường xem như đôi bạn.
Hạnh chợt nắm chặt tay tôi, thấp giọng hỏi:
- Chị có sợ chết hôn?
Câu hỏi đột ngột, tôi không biết trả
lời sao. Nghe nói, những người sống mãnh liệt nhất thì
không sợ chết. Còn những kẻ sợ chết thì không sống
bao giờ. Nhưng mà...
Tôi bỗng nghĩ đến những chiếc sọ người
vét từ dưới đáy ao lên, bất giác quay đầu nhìn ra sau
lưng. Gió thổi qua những ngọn dừa nghe xào... xào...
- Tụi mình về nhà đi. Vừa đi vừa nói
chuyện cũng được.
Tôi cảm thấy bóng đêm không được an toàn
lắm và thâm tâm cũng không muốn tiếp tục loại chuyện
Hạnh đang hứng nói. Tôi không có khiếu triết lý. Tôi
hài lòng với hiện tại, tự thấy mình là một con người
bình thường, có một chỗ đứng vừa phải, đôi khi cũng
được bầu lao động tiên tiến hay chức vụ phó này phó
nọ. Cho nên nói chung thì tôi chưa thật sự tha thiết sống
và cũng hơi sợ chết. Đối với những hành động anh hùng,
những việc phi thường, những vấn đề cao xa... thái độ
chung của tôi là "kính nhi viễn chi". Tôi những tưởng
Hạnh sẽ có những chuyện dí dỏm hay là lạ kể nghe cho
vui. Tôi cố tình lái câu chuyện về những cái có tính
con gái nhất, như bếp núc chẳng hạn. Ngày còn ở nhà Hạnh
vốn đảm đang, nhất là nấu nướng giỏi.
- Chắc ở bộ đội, em làm hậu cần?
- Một thời gian thôi, bây giờ em ở bên
quân y. Hồi còn làm hậu cần, có lần em làm cá. ở
"bển" có những con cá lóc bự thiệt bự, đầu cá
bằng đầu gối em lận. Khi đập vô đầu cá em thấy con
cá giãy lên đành đạch, vây mang vây lưng run lên như bơi
chới với trong không khí, em tự nhiên thấy tay mình run
theo. Em chờ con cá chết hẳn mới dám cầm lên lóc vảy.
Vậy mà khi lưỡi dao phạm vào mình cá, nó vẫn còn giãy
một cái mạnh đến nỗi văng cả thớt lẫn dao. Cứ nghĩ
rằng có một sinh vật đang cố vùng vẫy tuyệt vọng
trong tay mình để đòi được sống, em cảm thấy làm sao
ấy! Cứ lợm giọng rùng mình hoài. Ngay cả sinh vật hạ
cấp như loài cá cũng muốn sống, phải hôn chị? Ngay cả
khi nó không hề ý thức gì về sự sống, nó cũng có những
phản ứng sinh lý đòi sống huống chi là con người. Em cứ
nghĩ là được sinh ra đời, con người tối thiểu phải có
quyền được sống. Nhưng chị biết hôn, những cái sọ
người vét dưới ao lên hầu hết đều bị bể, dấu vết
của những cán cuốc đập vào đầu. Những người đã bị
đập đầu chắc khi phải chết, họ còn muốn sống lắm.
Càng trẻ người ta càng ham sống. Mà trong những cái sọ
ấy có những cái sọ nhỏ của trẻ em. Chắc là khi bị
đập đầu cho chết, họ cũng giãy giụa, cũng làm mọi
cách để níu lấy cuộc sống. Và nếu là trẻ em, chắc
chúng òa lên khóc và có đứa kêu cứu "má
ơi!..."
Có một ngọn gió lạnh buốt thổi dọc xương
sống tôi. Làm sao người ta có thể đập lên đầu đồng
loại mình, thản nhiên như đập đầu cá lóc, hàng loạt,
hàng loạt...
Trăng hạ tuần bây giờ mới lên. ánh trăng
nhạt run run trong bóng lá cây rọi xuống con đường đất
nhỏ. Những điều Hạnh nói hôm nay chắc là vẫn được
xào đi nấu lại, trong đầu Hạnh rất nhiều lần. Có thể
ngay cả trong giấc chiêm bao của Hạnh, những chiếc sọ
người cũng hiện diện. Hai đứa tôi về đến nhà, ngồi
trên thềm chơi. Mấy đứa nhỏ con cậu tôi hỏi hai chị
có muốn đi bắt chim hôn? Chim ngủ trong bụi cỏ lau dọc
bờ sông, mình bơi xuống nhè nhẹ sát vào bờ, bất thần
rọi đèn soi vào, chim không kịp bay đi, mình bắt dễ ợt.
Bắt chim về mai quay ăn. Hạnh từ chối nhưng dặn theo là
nếu bắt được con nào dễ thương cho chị xin để nuôi.
Tôi cười với Hạnh:
- Lúc này em coi bộ hiếu sinh dữ?
- Không phải em ở xứ Phật, mà sợ tội
sát sinh. Nhưng chị đã từng cầm một con chim trong lòng
bàn tay chưa? Chị sẽ nghe trái tim con chim đập trong tay chị,
và lòng bàn tay chị sẽ ấm dần. Lúc ấy chị sẽ thấy
đáng trân trọng, nâng niu một cuộc sống trong tay mình biết
bao!
Bỗng nhiên Hạnh có vẻ đăm chiêu. Tôi cảm
thấy ba năm mà Hạnh của ngày xưa hoàn toàn rơi mất theo
thời gian. ở bên trong cái bề ngoài không thay đổi, tôi
dần khám phá qua câu chuyện của Hạnh, một tâm hồn kỳ
diệu. Những ngọn cỏ, những con chim... cũng gợi trong Hạnh
những suy nghĩ về cuộc sống. Sao mà Hạnh luôn bận rộn
với những điều mà chẳng mấy khi nào tôi quan tâm, dù
luôn rảnh rỗi. Hạnh chợt trở lại câu chuyện:
- à, để em kể chị nghe lần em bị
thương. Hôm ấy có một trận đánh với bọn tàn quân
PônPốt. Trong một trận đánh có những tình huống không
dự tính trước. Tình huống của em lúc đó là phải đưa
một đồng chí bị thương ra khỏi chiến trường. Em không
có phương tiện gì cả. Vết thương nặng và anh ấy đã
mê man. Em thử cõng anh ấy, và kỳ lạ là em cõng nổi và
đi được. Trong đủ các thứ tiếng chói tai của chiến
trường, em vẫn nghe rõ tiếng trái tim anh ấy đập trên lưng
em. Nhịp đập gấp, có lúc yếu dần đi rồi gấp dậy, dồn
dập, như muốn nói điều chi tha thiết lắm; rồi bỗng yếu
đi, yếu dần đi tưởng như im luôn; chợt sôi nổi trở lại
như không đành yên, không thể yên. Trái tim ấy gắng gượng
lần nữa, lần nữa, rồi kiệt sức hẳn. Khi không còn
nghe nhịp đập trái tim trên lưng mình, em không tin. Em đặt
anh nằm xuống. Đôi mắt anh vẫn mở, gương mặt trẻ và
đẹp. Em áp sát tai mình vào ngực anh nghe thật lâu, nghe cả
hai tai, vẫn không nghe thấy gì. Em không tin cả hai tai em.
Em lại cõng anh lên, hy vọng lại nghe thấy trái tim anh
còn đập trên lưng mình. Nhưng chỉ có trái tim trong lồng
ngực em đập thảng thốt. Có thể nào chăng? Em đặt anh
nằm xuống. Đôi mắt anh nhìn lên bầu trời cao thăm thẳm.
Em không ngẩng nhìn lên, nhưng em nhìn vào đôi mắt ấy,
và biết trời hôm đó xanh vô cùng. Em ngồi lặng yên,
không nghĩ đến việc đưa tay vuốt cho đôi mắt ấy khép
vĩnh viễn. Anh ấy còn trẻ lắm, độ bằng tuổi em thôi.
Lần đầu tiên trong đời, một tình cảm gì, như nỗi
căm hận, tiếc thương, từ từ dâng trào lên rồi dồn
ứ ở cổ. Nào anh ấy có phải là người thân yêu gì của
em đâu. Một hai lần em có gặp ảnh, nhưng chưa biết tên,
chưa quen nhau. Vậy mà sao lúc ấy thấy gần gũi, mến
thương kỳ lạ. Nếu không có bọn người đập đầu đồng
loại bằng cán cuốc kia, chắc là ảnh sẽ gặp em ở một
nơi khác hơn là nơi đây, một công viên đầy hoa chẳng hạn,
biết đâu tụi em chẳng làm quen nhau, yêu nhau, cưới nhau,
rồi sanh con đẻ cái... ừ! Tại sao không? Tụi em còn trẻ,
đời còn dài, còn chứa chan ước vọng. Em đứng lên. Bỗng
một cảm giác nhói đau, ở đâu đó gần vai, làm em lảo
đảo ngồi xuống. Trong đôi mắt anh, đôi mảnh trời xanh
bao la. Em muốn đưa tay vuốt đôi mắt ấy, nhưng không cử
động cánh tay được nữa. Em được đưa về y viện như
thế nào em cũng không biết. Vết thương không có gì ghê
gớm lắm. Nhưng những ngày ở viện, em cứ nghĩa hoài đến
những đồng chí mình đã hy sinh. Lúc ấy, có một ai nào
đó đã đọc cho em nghe một bài thơ, không nhớ của ai nữa.
Bài thơ đại ý nói là vào những năm bom Mỹ còn giội
trên miền Bắc, những lề đường, những góc phố Hà Nội
đã được đào lên làm hầm hào, công sự. ở những nơi
đó, có những người đã chiến đấu, bắn máy bay, bảo
vệ thủ đô, và đã hy sinh. Khi hòa bình, hầm hố được
san lấp. Trên lề đường, công viên, người ta trồng lại
cỏ. Và mỗi buổi chiều, từng lứa đôi dắt tay đi dạo,
họ ngồi trên ghế công viên, tâm tình và nói đến
tương lai, có khi họ trao nhau cái hôn đầu tiên nữa.
Trên đầu họ, trời cao thanh thản, và dưới chân họ, cỏ
xanh dịu dàng ca hát. Bài thơ làm em thao thức hoài. Em nghĩ
đến màu cỏ xanh. Những bãi cỏ mượt mà tươi thắm, trải
dài dưới chân mình bước. Những ngọn cỏ với sức
vươn lên mãnh liệt. Em bỗng ước mơ mình sẽ là người
đi trồng cỏ, và ước mơ ấy được ấp ủ trong lòng em
cho đến bây giờ. Chị biết không, mỗi lần qua một phum
sóc hoang tàn nào, là em lại tưởng tượng đến hình ảnh
của một ngôi trường với một sân chơi nho nhỏ. Em sẽ
trồng cỏ trên sân ấy, để trẻ em chơi có té ngã cũng
không đau. Và trong lòng em cứ vang lên không thôi tiếng
các em hồn nhiên nô đùa, không kinh hoàng hay nơm nớp lo sợ
những lưỡi cuốc chỉ chực bổ xuống gáy mình...
Tôi đặt bàn tay mình lên vai Hạnh. Tôi hiểu
chứ, khi còn trên trái đất này những kẻ đập đầu đồng
loại bằng cán cuốc, thì còn cần những người tiêu diệt
chúng. Nên Hạnh và bạn bè còn chịu đựng gian khổ, hy
sinh. Nhưng khi không còn chúng nữa, sẽ cần nhiều, rất
nhiều những người-trồng-cỏ.
Đêm lồng lộng những cơn gió từ sông lớn
thổi về. Tôi nhìn ra vườn, dưới ánh trăng lợt lạt,
không thấy cỏ mầu xanh. Sương đêm bắt đầu làm không
khí ẩm lạnh. Lần đầu tiên tôi cảm thấy quả thật vạn
vật không ngơi nghỉ về đêm. Hình như chung quanh tôi,
cây cỏ đang nảy lộc, đâm chồi. Có thể ở bãi cỏ trước
sân nhà ngoại tôi đây, đang mọc lên những ngọn cỏ mới,
màu cỏ xanh non nhạt mà phơi phới sức sống. Sáng mai vô
tình tôi sẽ giẫm qua mà không biết đau. Tự nhiên tôi
nghe tim mình đập nhanh như đang thổn thức. Hạnh cầm bàn
tay tôi ân cần:
- Chừng nào rảnh, chị qua nhà má em chơi.
Mỗi lần em về, rồi đi, là má em làm mặt giận. Mà chị
đừng kể cho má nghe chuyện em bị thương nghen. Má ưa lo
này lo nọ lắm, nên em không hề cho má biết gì hết. Chị
đừng kể nghen!
- Chị không kể đâu.
Từ trong đêm vọng lại tiếng "rào...
rạt... rào...". Hai đứa tôi ngồi yên lắng nghe. Ngày
mai Hạnh lại về đơn vị. Và lòng tôi lần đầu tiên thấy
bồn chồn một nỗi gì. Tay Hạnh vỗ bàn tay tôi, tha thiết:
- Chị có nghe hôn? Con sông đang thở đó.
Tôi nghe. Chắc là con sông phải ngày đêm
lao ra biển bằng tất cả sức lực của mình, nên mới thở
dữ dội vậy. "Rào... rạt... rào". Tôi ngồi im
nghe.
Hai giọt nước mắt không ngờ, ứa nơi khóe
mắt tôi. Tôi để mặc nó rơi. Những giọt nước mắt tội
nghiệp cho mình. Tôi ôm Hạnh muốn nói cám ơn mà không
nói được. Bao lâu nay, tôi vẫn biết con sông chảy nhưng
không hề nghĩ, không hề biết con sông với bộ mặt hiền
hòa ấy đang sống, đang thở mãnh liệt đến như vậy. Mỗi
ngày hai bận con nước triều lên xuống, tôi chỉ nghe tiếng
sóng vỗ vào bờ "rào... rạt... rào". Và ngay đến
cỏ, có bao giờ tôi nghĩ đâu rằng, cỏ vẫn ngày đêm
âm thầm ngợi ca cuộc sống bất diệt, bằng chính màu
xanh vĩnh viễn của mình./.
1981