Nói gì nữa bây giờ. Người đàn bà đó Phàm không
quen. Chồng của bà, Phàm không hề yêu dù ông cứ đi rêu
rao với mọi người rằng Phàm là nàng thơ, là mối tình
đầu của đời ông. Và điều lớn nhất khiến Phàm
không chịu nổi đến độ phải xóa đi mọi thứ chính
là vẻ hả hê của ông Thiền. Ông là người đứng đầu
ngôi trường ngày được một năm sau khoảng tám năm nhọc
nhằn mưu tính. Với khá nhiều người, ông thường đóng
vai người anh hai của Phàm, một người anh xót xa trước
đứa em gái mãi sống đời đơn độc, một đồng nghiệp
tức tối vì người đồng chí của mình không được trọng
dụng, khiến mai một tài năng. Vợ ông đã từng gặp
riêng Phàm, làm ra vẻ tin vào những điều bà nói:
- Hãy thông cảm cho anh chị. Anh muốn lắm nhưng không
thể đề bạt em làm hiệu phó vì bên ngoài cứ ngờ em
và anh Thiền có tình ý với nhau.
Đó là lời phỉ báng nặng nề nhất mà Phàm bị nghe
vì cô nghĩ rằng chẳng cô gái nào tìm ra một nét nhỏ gợi
cảm giác yêu thương nơi khuôn mặt trào vẻ hòa hiếu giả
tạo của ông Thiền.
Bức hình có cặp hồng hạc là vật duy nhất Phàm
thích trong văn phòng hiệu trưởng. Cô không quên được
những lần hiếm hoi theo chị Hạc vào đó gặp ông Du và
nghe người hiệu trưởng cũ nói về vùng đất huyền thoại
đầy sếu đầu đỏ mà ông đã lớn lên. Đó cũng là vật
duy nhất ông Thiền cho giữ lại, sau khi đã thay toàn bộ
ghế thanh nhã ngày xưa bằng những vật dụng chói chang
nhiều sắc màu tạo cảm giác muốn ói nơi Phàm mỗi khi
cô được gọi vào.
Câu nói gằn mạnh của ông Thiền đưa Phàm trở về thực
tại:
- Giờ tính sao đây, cô Phàm?
Cô đáp khẽ khàng:
- Tôi xin nghỉ!
Ông Thiền đứng phắt dậy:
- Không được! Cô không được quyền nói năng vô
trách nhiệm như vậy. Cô đã ở trường này từ lúc nó mới
lập. Lẽ ra cô còn phải ngồi ở chiếc ghế của tôi.
Phàm thở hắt:
- Tôi không được khỏe. Chuyện tôi xin nghỉ không
dính gì tới lá thư này. Nếu không cho nghỉ luôn được
thì cứ tạm thời cho tôi nghỉ không ăn lương
Và bây giờ cô đang ở trên vùng đất huyền thoại của
ông Du ngày xưa. Có vẻ không giống chút nào hết với những
gì cô vẫn tưởng tượng. Qua lời ông Du lúc ấy sen súng
bát ngát trải mãi tới đường chân trời, chiều chiều
chim từng đàn bay rợp, ông thuở 12 tuổi được mấy bà
cô trẻ chèo xuồng đưa đi trên một biển ngợp hương
sen. Và mãi, không biết đâu là bờ, là bến
Trên xuồng có một nhà sư xống xếng áo vàng, một người
đàn ông áo nâu nhấp nhổm đứng ngồi hối cậu nhỏ chủ
xuồng chèo lẹ, một thanh niên quần xanh áo trắng xắn
tay ra dáng thanh niên thành thị, mắt sáng lấp lánh sau
khung kính trắng Phàm vừa xuống xuồng, cậu đã xà lại
ngồi kề và tíu tít nói như không muốn để phí từng
giây sống trôi qua:
- Chị ở thành phố xuống hả, hay ở nước ngoài về?
Đi mua đất hay ghé thăm chim? Mà sao chị gan quá, tới xứ
lạ đơn thương độc mã
Đơn thương độc mã! Một ngựa một thương à, nhưng mình
làm gì có thương, chỉ hai bàn tay trắng sau gần hai mươi
năm xông xáo (hay lơ láo?) nhiệt tình tung rải Phàm tự cười
mình. Cậu thanh niên vênh mặt:
- Hồi ba em mới tới đây cũng như chị thôi, cũng một
mình với hai bàn tay trắng. Nhưng ba em định cư luôn, còn
chị thì chắc dễ gì!
ông áo nâu lại bồn chồn:
- Nhắm ông Đốc có đi không cậu Hoài, hay để tui chở
vợ tui lên?
Hoài cười trong một vẻ thư thái ngược lại:
- Ai biết được! ổng thấy chuyện cần phải đi là
đi ngay, không phải kỳ kèo. Tánh đó ai cũng biết!
Rồi thì thào vào tai Phàm, cậu nói:
- ông sư kia xuống đất này một lượt với ba của em.
ông ấy đứng ra mua hàng mẫu ruộng mẫu đất cho chùa rồi
thuê dân ở đây làm ruộng Đất ruộng của chùa đúng
là cò bay thẳng cánh, nếu còn có cò.
Phàm buột miệng hỏi:
- Còn ba cậu?
Hoài khoát tay:
- Tài sản của ba em chính là tụi em
Xuồng dừng lại ở một trạm gác có xây đài coi chim
cho Phàm lên Hoài đã kịp cho cô nhiều thông tin thú vị về
vùng đất này nhưng theo cô lên bờ chỉ gọn lại bốn chữ:"Nếu
còn có cò!". Và khi được gặp vợ chồng người bảo
vệ nơi chòi canh này, cô hiểu tại sao Hoài đã nói vậy.
Chị Sáu bày ra một bó ảnh sếu đầu đỏ cho Phàm coi:
- Hạc còn về đâu nữa mà coi! Cô à, nếu thích mang
hình về thành phố khoe là đã tới chốn này thì cô cứ
lựa đi, một tấm năm ngàn đồng thôi. Của tụi nước
ngoài tới đây chụp rồi gởi vợ chồng tui bán, cho vui
đó mà, lời lóm gì đâu!.
Phàm ngó những chú sếu thất thế lạc thần, chân đeo
vòng màu cam có ghi số, đứng lóng cóng trong những chiếc
chuồng bằng kẽm thưa mà cảm giác rớt tim như vừa được
thấy người yêu mình hôn cô gái khác. Chị Sáu thì thào:
- Cô ở lại thất công, tôi đem đầu ra cá, hạc bay
đi xứ khác hết rồi!
Phàm nói như đứt hơi:
- Sao dân nói mùa này là mùa tụi nó kéo nhau về, trong
đêm khuya, và sẽ hót nếu có hứng
Chị Sáu lắc đầu ngao ngán trước sự bướng bỉnh của
Phàm:
- Đó là chuyện xưa, cách đây vài năm. Cá một trăm
ăn mười tui cũng cá Hay khuya nay, giao xuồng cho thằng nhỏ
chở cô đi mai phục chỗ nào cô thích kẻo cô lại cho vợ
chồng tui bày chuyện bán hình
Bỗng mưa, mưa bạc trời bạc đất, tiếng ầm ầm như
một nỗi tuyệt vọng không còn lối quay lui. Mặt Phàm
tím ngắt tím ngơ khiến chị Sáu ái ngại:
- Mưa không ngớt cô cứ ngủ lại đây, vợ chồng tui sẽ
nhường cô cái giường tốt nhứt.
Phàm lắc đầu:
- Nếu thiệt như chị nói thì lúc nào có xuồng khách
đi qua, cứ gọi giùm. Còn hình thì thông cảm cho, tôi
không thể mua bất cứ tấm nào
Những tấm hình tăm tối được xốc lại, buộc bằng
dây thun. Chị Sáu chép miệng, lặp lại ý của Hoài:
- Vô trong tui đáng gió cho rồi đi đâu cũng được Đờn
bà con gái, sao lặn lội về xứ đầm lầy ẩm ướt này
chỉ có một thân một mình
Khuya, nghe nói xuồng ghé, Phàm cương quyết về. Cũng thằng
bé đầu húi gần trọc chèo nhưng trên xuồng chỉ còn mỗi
một người đàn ông lạ, đèn ở trạm gác cho thấy tóc
đà lấm tấm trắng hai bên màng tang. Phàm xuống xuồng,
còn thẩn thờ vì còn mang theo ánh nhìn đau đáu của đàn
sếu đầu đỏ bị đáng số trong chuồng Xuồng đi một
khúc, ngang qua những quảng đồng không mông quạnh, lờ mờ
đùm bụi đậm nhạt sắc đen, bỗng ở đầu mũi bên kia
vang lên tiếng Huế xưa:
- Phải Công Tằng Tôn Nữ Tiên Phàm không?
Mưa chưa dứt hẳn, còn lớt phớt như sương sa, Phàm
nghe nổi gai ốc khắp người như vừa được gọi hồn từ
kiếp khác:
- Ai rứa? Ai mà biết Tiên Phàm.
Bóng người ở đầu xuồng bên kia không chuyển động:
- Dự bị 5 hồi xưa con trai đông quá. Phàm ở trong Nam
ra học Dự bị 6, không chơi với ai nên chắc cũng chẳng
nhớ ai. Bao nhiêu năm rồi, tuổi trẻ của Trứ, Huế của
Trứ luôn gắn với hình ảnh Phàm ôm cặp đứng, chờ bọn
Hương Nhu, Vĩnh Thủy dưới dàn hoa giấy bên nhà bác sĩ
Chương ở cổng trường sau
Phàm quấn thêm khăn ấm, lắc đầu, không nhớ nổi Trứ
xưa ra sao. Hình như có một nhóm mấy cậu chơi với nhau tên
toàn là vần T: Thức, Tuấn, Tao, Tình, Trương, Tú, Trứ.
Con trai Dự bị 5 Phàm chỉ nhớ Kỳ vì Kỳ vẽ mặt Phàm
với mái tóc con trai trên túi áo blouse trắng mỗi giờ thực
tập làm bọn Nhu, Thủy phải so bì. Và còn gì để nhớ nữa
trong hai năm phù du trong một thành phố đầy vết xưa u tịch.
Để coi, trận đi cứu lụt ở phá Tam Giang Bên kia bờ
phá, người ta phải luộc xương rồng ăn để đỡ đói;
những lá thư không ghi tên người viết cứ được đặt
lén dưới chiếc kính hiển vi mà họ biết chắc Phàm sẽ
ngồi vào Trứ cứ miên man nhắc lại những ngày tháng cũ,
xen kẽ với những ngày tháng khắc nghiệt sau đó của
anh. Trứ ra trường được nhận làm thầy dạy lại ngôi
trường vừa học xong đâu độ vài năm thì gặp sự biến
phải trôi xuống tận cùng đất nước rồi giạt ngược
về khúc đất đầy năng lác và mất dần sen, hạc này.
Trứ kể trên chiếc xuồng đưa Trứ lơ ngơ mới xuống,
không ai tin anh là bác sĩ. Mãi tới ca mổ đầu, bệnh nhân
chính là anh Công An, chồng của người phụ nữ trên xuồng
ấy cứ kêu mọi người cảnh giác, cao lắm anh chỉ là một
y tá, về đây "nổ văng miểng" để lòe người.
Ca mổ thứ nhì cho một bé lên năm, Trứ mở cửa phòng mổ
bước ra là bên ngoài mù mịt khói nhang của thân nhân bé
khấn nguyện con họ còn sống sau khi giao mạng cho một
tay-lang-bạt-tự-xưng-bác-sĩ
Trứ nhắc lại Phàm còn nhớ không bộ sưu tập tim của
cá, ếch, rắn, thằn lằn ngâm formol tử tế của bọn 6T
gói đẹp làm quà tặng hôm cô vừa 20 tuổi. Nói tới ếch
Trứ lại miên man kể những năm đầu không có đèn mổ
ở bệnh viện huyện, Trứ phải gắn đèn soi ếch lên đầu
để khi mổ xong, cổ gần như không xoay chuyển được. Phàm
nhớ không nổi hồi đó mình có yêu ai không trong số những
chàng trai trẻ, chỉ nhớ ba đứa Nhu, Thủy, Phàm đã chọn
"yêu" ba thầy dạy môn chính chỉ với mưu đồ bắt
buộc phải học thật giỏi môn của "thầy yêu".
Thủy đã hai con, ly dị. Nhu thì hạnh phúc hơn với con
đầu vừa vào đại học, chỉ còn rớt lại mỗi Phàm.
Bóng của những cây cầu nơi khu vực ngả tám sông đã thấp
thoáng đằng xa Phàm định chuyển xuống vùng giữa xuồng
để nghe rõ hơn những mẩu chuyện thú vị thời Trứ mới
đến. Dường như biết được ý cô, Trứ ngăn lại:
- Phàm ngồi yên đó! Ngó bạn ở góc này không khác
dáng hạc ngày xưa Nếu thật bạn không ở lâu được thì
buổi tối trước khi đi bắt buộc phải ghé nhà cho hai đứa
con gặp, nhất là con bé Tiên Phương, rất "ái mộ"
cô Phàm.
Thằng bé chèo xuồng giờ mới nói:
- Hồi lượt đi, cô này ngồi chung xuồng với sư Ngọ,
ông Bảy và anh Hoài, con của bác sĩ
Rồi nó nói riêng với Phàm:
- Anh Hoài học ở Sài Gòn về chơi. Bác sĩ mới đi đỡ
đẻ cho vợ ông Bảy xong, còn sư Ngọ thì đợt này xuống
đây để thay mặt nhà chùa xắn lại mấy công ruộng, mẫu
đất tặng lại cho xã nghèo nhất huyện này.
Buổi tối cuối cùng ở thị trấn, sau buổi cơm chiều
với đoàn, còn đến hai tiếng nữa mới tới giờ hẹn với
Trứ và các con anh, Phàm đi dọc theo mấy cây cầu vào phố
chính Nhà nhà lần lượt lên đèn. Ở một ngả rẽ có căn
phố gắn bảng tên Trứ lau nhau nhiều nam phụ lão ấu áo
quần bạc bụi ngồi đứng đợi tới phiên.
Cuối phố là bưu điện huyện, nơi có chiếc tháp sắt
sơn đỏ trắng ngất cao Những ông bà cụ cùng đoàn với
cô đang đứng xếp hàng ở các cabin để chờ đến lượt
mình vào. Có lẽ họ gọi về nhà để đỡ nhớ con, nhớ
cháu
Phàm đứng quanh quẩn đó chờ khi không còn một ai, vẫn
chưa tới giờ hẹn, cô lấy một tờ phiếu, ghi một số
điện thoại vẫn nằm chặt tự lúc nào trong tiềm thức,
tình cờ truyền xuống tay cô khi điện thoại bên kia chưa
được nhấc lên, cô hình dung ra người thầy, cũng là người
may mắn chụp được đôi hạc như chút gì mong manh còn
sót lại trong văn phòng hiệu trưởng Hẳn là ông vẫn
đang ngồi một mình cặm cụi làm việc trong căn phòng rộng
thênh thang với những kệ sách màu xám cũ. Từ lúc chị
Diệu Phi của Phàm ra đi, ông vẫn chưa chịu lập gia đình
dù bao người đẹp, giỏi các lứa tuổi vẫn dìu dập
tìm cách tiếp cận ông.
Tiếng của ông Du bên kia ấm áp và vẫn hết sức quen
thuộc dù đã bao năm Phàm mới được nghe lại: "Alô!
Tôi Du đây"
Cô nhắm mắt lại, trước mắt cô, một cánh hạc xám
bay vút trong mưa bạc rồi như tan nhập vào chân trời bạc
xám bão giông ./.
Nguyễn Thị Minh Ngọc
11.2001, Hà Nội.