Buổi sáng, Sài Gòn cuối năm mặt trời như còn ngái ngủ.
Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần
thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh như sương
sớm trên hàng cây ven đường theo về với cơn gió lạnh.
Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi,
như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ
được mà cũng vừa cách xa vời vợi. Chắc là nỗi ám
ảnh mà đôi mắt ấy đã để lại? Từ đôi mắt biết
nói cười. Từ đôi mắt có đuôi êm ả đã hẹn nói với
tôi những lời nói của bình minh trên sông xanh, của đêm
nguyệt hồ và của chiều thủy tạ? Đôi mắt thở dài,
đằm thắm những lúc ngước nhìn. Nhưng có một ngăn cách
âm thầm làm cho tôi bối rối, tưởng như từ đáy sâu của
màu mắt đó là cổ mộ, đền đài, lăng tẩm ngàn xưa.
Sáng nay, đôi mắt ấy gợi nhớ chút êm ả bình lặng
của ngày tháng cũ, những lần nằm dưới tàn cây rậm
rì, nhìn nắng trưa sáng lòa trên đám đất khô, gợi nhớ
những khuya khoắt trên bến đá ngồi nghe tiếng sáo dìu dặt
trên dòng sông, vuốt ve những tàu lá dừa sóng soài dưới
trăng, gợi nhớ những ngày hội hè đình đám, chiếc áo
the thâm, guốc mộc, chiếc chiếu hoa cạp điều. Đôi mắt
đầm đìa chuyện cũ, đầy ắp hương xưa lẩn quẩn theo
tôi đi hết con đường hồi nào không hay. Tôi đứng lại
thở một lát, vuốt mấy sợi tóc dính trên trán, loay hoay
với những ý nghĩ thầm kín trong lòng. Bên kia đường,
dưới một góc cây giáng hương, người đàn ông chít khăn
xanh đang bày hàng. Vài người đi đường dừng lại nhìn.
Người đàn ông vừa bày ra các thứ vặt vãnh, rồi cất
giọng ca một câu vọng cổ. Giọng đã khàn, mệt mỏi,
thu hút tôi không thể không băng qua lộ, đến với lão.
Nhìn dáng điệu của lão cùng các món hàng bày bán trên tấm
vải dầu trải rộng, tôi thấy tiêu điều quá. Tất cả
như là một chứng tích tiều tụy của một thời gian.
Tôi bất chợt nhớ mang máng câu thơ cũ "những người
muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?". Qua lớp bụi mỏng
vàng nhạt trên các đĩa sứ, lư đồng, lọ gạt tàn thuốc,
bức hoành phi chạm cẩn, qua màu đen cũ càng của những
đồng tiền và trong cái dáng mệt mỏi của lão, có một
chút gì của ngày tháng cũ còn vướng vất, lê lết trên
đó. Nó thảm hại tưởng chừng như từ những di vật đó
vẫn còn ấp ủ một lớp bụi thời gian bạc mốc. Lão với
tay vơ chiếc khăn cũ nhàu nát, phủi lau chùi những đường
viền bạc, những lớp bụi bám đầy. Mấy ngón tay len lỏi
trong từng ngách, từng góc nhỏ, vội vã một lát rồi chậm
dần. Lão dừng lại, ngần ngại trên những hình tượng của
bức hoành phi chạm cẩn, chỗ một miếng cẩn bị lốc
ra. Rõ ràng là ngón tay lão hơi run khi dừng lại ở đó.
Tôi nhích người về phía trước, hơi khom người xuống
đưa tay rờ rẫm những đường nét góc cạnh, cũng nét
ngang, sổ thẳng được lồng trong tàng cây, đàn chim, phiến
đá, bầy nai, bụi trúc, chậu lan, dòng suối... Những
hình tượng có tính cách thủy mạc sáng rỡ trên nước cẩn
bóng. Tôi cũng thẫn thờ một lát trên chỗ trũng mà miếng
cẩn bị lóc đi. Từ ngày ba tôi "rinh" cái nhà rường
từ quê vào Thủ Thiêm, ba tôi mang theo bức hoành phi cũ và
treo nó ở một vị trí trang trọng nhất. Có lần ba tôi rất
buồn về sự thiếu sót đáng tiếc của một miếng cẩn
trên đồ cổ. Bác Thiều đã từng chép miệng tiếc rẻ mỗi
lúc ngắm bức hoành phi của ba tôi. Ngày tháng mờ khuất
phút chốc lênh đênh theo dòng ý nghĩ. Để lấp chỗ
trũng đó, ba tôi đem dán bằng một miếng giấy kẽm sáng
bóng. Ba tôi đứng ngắm một lát rồi lắc đầu chán nản
lấy vứt đi. Có một lần, ba tôi gởi người quen ở miền
biển mua được một miếng xà cừ rồi tất tả chạy
tìm ông thợ cẩn cho kỳ được. Hì hục cả buổi, ông
thợ dũa mài, cắt xén cho vừa kích thước. Ông thợ kêu
khổ nói là đã bỏ nghề gần hai mươi năm, nể ba tôi
nên cố làm cho được. Lúc gắn miếng xà cừ vào, ba tôi
rất mừng rỡ, vội sai người nhà làm thịt con gà trống
thiến rồi xoắn xít lấy mỡ gà vàng rộm đem đánh bóng
nước cẩn. Các hình tượng như được hồi sinh, xán lạn,
bóng người cứ tưởng mấy con long lân qui phụng đang nhảy
múa, bay lượn dưới ánh mặt trời. Nhưng chỉ được một
tuần sau thì miếng xà cừ rơi xuống nền gạch, ba tôi nhặt
lên, mân mê tiếc rẻ. Trong bữa cơm chiều, ba tôi nói với
mọi người là lúc này chẳng còn lòng dạ nào để chơi
đồ cổ nữa. Đằng sau chỗ trũng đó biết đâu là nỗi
ngậm ngùi.
Tôi đặt bức hoành phi lại vị trí cũ. Có một ràng
buộc mơ hồ nhưng trong thâm tâm, giữa bức hoành phi và
tôi, nó gần gũi thân mật như chính nó là của ba tôi. Nhưng
điều này không lấy chi làm chắc chắn cả. Tôi vẫn còn
ái ngại như đang thấy nó lạc lõng, làm cho tôi phải nghĩ
tới những hàng mù u buồn phiền, những mái ngói cong thấp,
nặng nề mệt mỏi... Tôi chới với đứng lặng người.
Tôi không muốn bỏ đi lúc này. Mấy đường nét thanh tân
rất nghệ thuật, đã cuốn hút tôi lạ lùng.
Lão bán hàng thấy cần phải giải thích với tôi nên
lão đưa ngón tay chỉ trên những hình tượng: "Mấy nét
này thì đời nay có ai bắt chước cũng khó mà theo kịp.
Bốn tảng đá gác chồng lên nhau là chữ khẩu đó, bụi
trúc là bộ hòa. Chỉ tiếc một điều là miếng cẩn ở
chỗ này bị bóc đi". Lão chép miệng mấy cái, ra chiều
tiếc rẻ về sự hao hụt đó. "Để tôi lau một nửa,
cậu đoán xem bức hoành phi này được làm từ đời nào?".
Tôi lắc đầu cười. Cùng lúc, tôi nghĩ tới ba tôi
cùng những xoắn xít chăm sóc tỉ mỉ tới mấy miếng mỡ
gà vàng rộm. Tôi hỏi mua, mặc cả một hồi. Lúc cầm bức
hoành phi trên tay, tôi cười chào người bán hàng rồi bước
đi. Chỉ có tôi biết được vào lúc đó lòng mình hiu hắt
như thế nào.
Điều mà tôi chưa hề nghĩ hay chưa thể ngờ tới được
là ba tôi không niềm nở mấy khi tôi đem bức hoành phi về
nhà. Làm sao tôi quên được vẻ mặt bất chợt hốt hoảng
đau đớn, xa vắng của ba tôi, đôi mắt có những đường
chỉ đỏ như bị phủ một màng nước thật mỏng, nụ
cười ảm đạm. Ba tôi lúng túng thật sự, cử chỉ có vẻ
rời rạc, mệt mỏi lúc ông cố lấy bức hoành phi đưa lên
nhìn ngắm. Vài đường nhăn trên trán như chùng lại, có
lẽ một thời vang bóng nào đó lần hồi sống lại trong
ký ức của ba tôi. Biết đâu không là những miếng mỡ
gà vàng rộm, mấy con long, lân, qui, phụng nhảy múa rực
rỡ, vài cút rượu chiều hôm trên ghế trường kỷ... Qua
vẻ thẫn thờ đó, tôi thấy gần gũi với ba tôi hơn ngày
thường. Tôi ngập ngừng, giọng hơi rung nhẹ: "Ba thấy
có giống với bức hoành cũ của nhà mình dạo trước không?".
"Giống lắm, mà con kiếm đâu ra thế?". Ba tôi
nói lúc đưa tay rờ lên chỗ thiếu hụt của miếng cẩn.
Một miếng cẩn vô bổ, một yêu thích cũ càng, một thời
đã qua như đưa tôi trở về với ngày tháng cũ. Tôi náo
nức với những chiều trên đồi, những sáng lên lăng...
ba tôi đặt bức hoành phi trên bàn "Con treo lên coi thử.
Ba bận chút việc phải đi ngay".
Ba tôi bước vội ra cửa. Tôi nhìn theo buồn bã. Có thật
là ba không muốn đối diện với một thời vang bóng? Hay
ba thấy những liên hệ thâm trầm đó nay đã trở nên vô
bổ khó chịu? Tôi bối rối với bức hoành phi nằm trước
mặt. Có thật ba chẳng còn ham thích lau chùi, tìm một miếng
xà cừ khác và ba không còn nhớ những miếng mỡ gà vàng
rộm? Căn nhà rường, vườn cây và những đồ cổ chạm
trỗ lẩn quất đâu đó. Chen lẫn giữa những căn nhà hộp,
những ngôi nhà cao tầng... ở bên kia Thủ Thiêm, nơi mà
sông rạch, hàng dừa nước và bến đá cũng hao hao giống
nơi quê xa. Nhưng ba tôi lại không quên được khi cả sự
nghiệp phải bỏ lại cùng với những ràng buộc khăng khít
đã trở thành nếp quen. Có lẽ một phần vì thế mà ba
tôi đã thẫn thờ khi tình cờ nhìn thấy lại bức hoành
phi.
Tôi treo bức hoành phi lên tường, một chút ngậm ngùi
nhớ tiếc. Tôi đứng im sững, cố tìm trong đường nét
thủy mạc qua nước cẩn sáng bóng, những hình ảnh khăng
khít một đời. Chia lìa nào lại không làm mềm lòng, nhớ
về nào mà lại không hao hụt!
Tôi bất chợt nhớ một đôi mắt. Đôi mắt ấy sao mà
diệu vợi, biền biệt đến thế? Đôi mắt rờm rợp những
chuyện cũ. Đôi mắt đưa tôi vô hoàng cung, đến với dãy
tường thành rong rêu loang lổ và con chim cu gáy trên đọt
cây mù u. Giữa trưa trời Sài Gòn lành lạnh, tôi mơ hồ
nghe vọng lại từ đâu đó tiếng chim trong thành quách cũ,
tiếng hót ngọt mềm buồn buồn. Tiếng hót vang vọng
trong nhà, bềnh bồng vất vưỡng trên các hình tượng thủy
mạc của bức hoành phi vừa mới được treo lên. Tôi chợt
rùng mình./.
Trần Hữu Lục