Một trăm
linh tám cây bằng lăng
Chiều kết thúc nhanh bằng một cơn mưa dài bất tận.
Trời đang nắng lanh lảnh, chói gắt bỗng nhiên tối sầm
lại, đầy bất trắc. Và mưa. Từng dòng, từng dòng nước
sầm sầm đổ xuống. Những đường phố, những tòa nhà,
những hàng cây quá bẩn cần phải tẩy rửa. Cả người
nữa. Từng dòng người lầm lụi dưới mưa. Những tấm
lưng nổi lên sau áo ướt. Người béo thì nổi bết các
thớ thịt. Người gầy thì giơ sống lưng. Tất cả, cần
phải tẩy rửa. Trong cơn mưa.
Thoa đứng dưới mái hiên của tòa án.
Không thể đi được dưới làn mưa kia. Bởi ra mưa, chị
sẽ không nhìn thấy gì. Mắt vốn đã cận, kính lại
dày, thêm mưa như xối như tát vào mặt, quá là thách đố.
Đứng trong mái hiên, mắt khô, kính khô, vậy mà cách 2
mét đã không thấy gì, nữa là ra mưa?
Bên cạnh chị, rất nhiều người im lặng. Tiếng người
kêu lạnh. Tiếng chửi thề. Có tiếng huýt sáo. Lúc gần,
lúc xa.
Rồi tiếng còi ô-tô trong sân vang lên.
Một đoàn xe bảo vệ và chở phạm nhân từ từ trôi
trong màn mưa dày, xám ngoét.
Chị quay ngoắt ra nhìn. Vội kéo vạt áo, chỗ khô nhất
ra lau cặp mắt kính. Để nhìn cho kỹ nhưng chiếc xe đang
mất dần ở phía xa.
Tất cả chỉ còn tiếng mưa. Dày đặc. Bất tận.
Chị và anh rất hay bị mắc mưa. Còn nhớ, có lần tan
học buổi chiều. Anh ngấp ng hé
ở cổng trường đón chị. Nếu không phải họp đột xuất
(một đứa trong lớp bỗng nhiên nói là bị một thằng
tán tỉnh à ơi rồi... phá đời con gái, nay bụng vừa to
vừa cứng. Còn thằng kia sau một lúc cấm khẩu, bảo mới
bốn lần đi chơi, những lúc cao trào nhất bất quá túm
nhẹ vào bàn tay bóp trộm một cái, làm sao mà chửa được...)
thì chị và anh đã không bị mắc mưa.
Mưa cũng lớn như hôm nay. Họ đứng trú mưa dưới một
mái hiên quán thịt chó. Quán đông. Thịt chó chiều phơi
nắng kết hợp hơi nước biến thành hợp chủng mùi như
mùi nước cống. Vậy mà đám đàn ông gắp lia lịa những
miếng dồi vừa quắt vừa đen, kèm rau thơm riềng sả.
Ngon lành.
Chị kể cho anh nghe chuyện kinh dị của lớp mình - chắc
chỉ có những sinh viên đại học năm cuối trường tổng
hợp mới có. Anh cười. Khuôn mắt trắng xanh vì hơi mưa.
Chợt giật mình, cắt ngang câu chuyện rất hiện thực nhưng
cũng vô cùng trừu tượng của chị. "Thôi chết. Đường
ngập hết rồi. Bong bóng sủi thế kia là mưa dai lắm. Bà
anh bảo thế". Chị đang cười, quay lại đồng tình:
"Đúng rồi. Ông bà em chưa nói sai một điều gì. Bây
giờ mình p hải làm sao đây?".
Anh nhìn ra màn mưa - dày như màn mưa hôm nay, nhưng mưa
ngày ấy có tiếng reo vui hơn - rồi quay lại: "Đi nhé?
Đằng nào cũng ướt rồi". Chị gật đầu, cười tít
như thể chị đợi được chạy ra mưa từ nãy đến giờ.
Được lời như cởi tấm lòng.
Họ loạng choạng lao vào trong màn mưa. Những hạt mưa
chéo xiên rát bỏng đập thẳng vào mặt như những nan thủy
tinh nhảy lanh tanh trên đường. Lúc đầu, anh còn cười.
Rồi sau, chỉ thấy anh gò tấm lưng gầy chúi về phía trước
để giữ thăng bằng cho xe. Còn chị, chị nép vào người
anh, mặt úp vào lưng anh. Lạnh buốt. Rồi bỗng dưng anh
khựng lại. Chị choàng tỉnh. Tiếng tan loãng trong tiếng
rào rào. "Sao thế anh?". Anh quay lại. Chị vẫn
còn như khắc cốt ghi xương khuôn mặt anh lúc đó. Trắng
xanh, trong suốt. Nhưng nụ cười thật ấm áp, ánh mắt lấp
lánh yêu thương, tinh nghịch: "Xong rồi". "Xong
cái gì ạ? - Chị hỏi, nhảy xuống xe, rồi hét: "Ôi
giời ơi". Anh cười phá lên.
Hóa ra họ đi vào một đường ngập đến bụng và chỉ
một con đường duy nhất ấy mới về được nhà chị.
Anh nghệt mặt ra nhìn dòng nước đen sóng sánh. Vuốt nước
mưa trên mặt, anh nhìn chị đang so lại vì lạnh. Chiếc sơ
mi mỏng dán chặt vào người, nổi lên bầu ngực phập phồng.
Rồi anh dựng chân chống chiếc xe phượng hoàng đen
cũ, xốc lấy nách chị, nhấc bổng: "Em ngồi lên yên
giữ tay vào vai, anh dắt về". Chị so người lại vì
sự va chạm với anh. Dù trong mưa, dù ngấm nước mấy tiếng
đồng hồ nhưng người chị chợt bốc nóng, hai má bừng
bừng: "Em nặng lắm. Anh dắt làm sao được?". Anh
cười: "Nước sẽ giúp anh". Chiếc thuyền xe ngả
nghiêng trôi đi. Chị ngồi ngất ngưởng trên yên. Anh thì
tay ghi đông, tay yên, gò người đẩy xe ngược dòng nước
cao đến bụng, gần ngập cọc yên. Nước sóng sánh vỡ...
Hôm nay. Mặt anh cũng trắng xanh trong suốt như thế, dù
thời gian qua làn da không còn căng nhưng ngày ấy. Đôi mắt
vẫn yêu thương như ngày ấy. Chỉ khác sự yêu thương đó
lóa vội về phía chị rồi tắt ngay. Không còn thấy sự
tinh nghịch, lấp lánh. Chỉ thấy sự u tối dửng dưng.
Rồi chiếc xe thuyền cũng trôi về
đến nhà chị.
Trên trời, dưới đất, ba bề bốn phía chỉ nước là
nước. Họ giống hai chiếc giẻ lau ngâm trong chậu nước,
dập dờn: "Em lạnh không?". "Hơi hơi ạ".
"Thay quần áo. Pha một cốc chè đuờng, ngọt. Đập lát
gừng bỏ vào, uống xong đi ngủ. Mai tỉnh như sáo. Bà anh
bảo thế". Anh đứng dưới mưa, nước sóng sánh ngang
bụng. Dập dờn. Dập dờn. "Vâng". Chị đáp, hơi
co người lại khi anh nắm hai tay vào hai bên eo, nhấc chị
từ yên xe, qua mấy bậc cầu thang cao rồi thả xuống. Chỗ
cao nhất của tầng trệt ngập đến đầu gối chị. Chị
đứng nhìn theo đến khi anh quay xe và đi khuất. Vừa đi vừa
huýt sáo. Xa lắm rồi nhưng tiếng huýt sáo vẫn theo làn nước
chạy lan đập vào cầu thang.
Ba tiếng sau. Trong không gian im như hầm sâu, thỉnh thoảng
có một tiếng ếch ộp âm vang rồi tắt ngấm. Đôi lúc
tiếng ve kêu rạc rài. Chị chợt giật mình tỉnh dậy vì
nghe tiếng huýt sáo. Chị xoay người trên chiếc giường
đôi ở góc phòng. Bên cạnh là thằng em ngáy phơ phơ. Chị
nóng bừng người vì nghĩ đến tiếng huýt sáo, đến bàn
tay anh túm eo chị hồi tối. Chị ngồi bật dậy. Dưới
đường, rõ ràng là có tiếng huýt sáo. Đúng bản nhạc của
anh hồi tối. Không thể là mơ được. Mò mẫm ra cửa sổ,
nhìn xuống. Mưa đã tạnh. Bên dưới là một dòng sông nhỏ
sóng sánh ánh trăng. Trăng mười sáu - tròn, rõ ràng, tách
bạch. Một bóng người đổ dài trên nước. Thấy chị ló
ra, anh thôi không huýt sáo nữa mà bấm phanh xe tạch tạch
ba cái - ám hiệu mỗi lần đến nhà chị chơi. Đúng anh rồi.
Tim chị bóp mạnh. Gần 1 giờ sáng. Sao anh lại đến gọi
chị thế này?
Rón rén mở cửa. Vừa tra ổ khóa, vừa nâng cánh cửa
gỗ cho bản lề khỏi rít lên trong đêm, bố mẹ khỏi biết.
Chị nín thở lẻn đi.
Khu chưng cư thường ngày cứ 11 giờ im như hạt thóc.
Huống hồ đã 1 giờ, lại là ngày mưa. Đến tiếng thở
của chị còn to như người hết hơi, thở gấp sau một cuộc
chạy dài. "Anh đi đâu mà giờ này chưa về?". Chị
hỏi và nhìn. Anh vẫn ướt như hồi tối. Anh im lặng nhìn
chị. Rồi năm lấy tay chị. Bàn tay gầy, lạnh buốt vì nước:
"Anh vừa... có một chuyện...". "Chuyện
gì?" - Chị lo lắng, tỉnh hẳn ngủ. Anh đứng trong
nước. Chị đứng trên bậc cầu thang cuối cùng chưa bị
ngập. "Chuyện rất tệ". Anh thở dài. "Anh
nói đi". Chị thì thào, thỉnh thoảng ngoái lại phía
sau xem có ai không. "Anh không muốn, nhưng nó cứ xảy
ra. Anh cũng chẳng hiểu tại sao anh lại làm thế". Anh
nói và chợt xòe hai bàn tay ra trước mặt chị: "Anh vừa
đấm bố anh xong. Và... cầm dao đuổi ông ấy ra khỏi
nhà". "Giời ơi" - Chị há mồm, trố mắt
nhìn anh. "Lúc anh đưa em về, chỗ nào cũng ngập. Vòng
vèo mãi, rồi phải vào đường Nguyễn Thượng Hiền. Thấy
ai giống ông già đẩy xe đằng trước... Cố đuổi theo vì
chẳng lẽ mưa gió thế này ông ấy đi cùng ai? Lại không
phải mẹ. Gần đến nơi, chưa kịp gọi thì thì thấy người
kia ôm eo bố, đẩy bố. Để thêm sức mạnh cho bố... đẩy
xe. Anh lằng nhằng đi theo như sắt bị nam châm hút. Đến
phố Quán Sứ thì họ dừng lại...". Chị nín thở. Nuốt
từng câu anh kể, quên cả việc chỉ cần nhắc anh bước
lên một bậc cầu thang sẽ không phải ngâm chân trong nước.
"Rồi bố anh ôm hôn người đàn bà kia...".
"Trong mưa?" - Chị bật hỏi. Anh gật, hai quai hàm
giật giật. "Họ không không biết đến mưa, đến lội
nước. Anh quay xe, đi nhanh về nhà". Chị thở dài.
"Một lúc sau, ông ấy về, người ướt như chuột. Mẹ
anh vừa ra mở cửa ông ấy đã chửi ầm lên". Chị vội
nắm lấy cánh tay anh. Nước dưới chân anh sóng sánh. ánh
trăng lan lan chạy đến chân cầu thang thì vỡ vụn.
"Nào là ông ấy quá nặng gánh để nuôi mẹ con anh.
Nào là mẹ anh chỉ biết ngồi ở nhà, mưa không đến mặt
nắng không đến đầu, ăn xương hút máu ông ấy... Không
biết đây là lần thứ bao nhiêu ông ấy gào lên như thế".
Anh vừa kể, vừa giũ giũ tóc, lắc đầu như muốn xua đi
những gì tệ hại. Chị không biết mình đã bước xuống
và giẫm chân vào nước từ lúc nào: "Em hiểu rồi.
Bây giờ anh định thế nào?". Anh vòng tay khoác vai chị.
Chợt thấy cả hai đã ở trong nước, anh bật kêu:
"Em ướt hết rồi". Chị cười không trả lời
và để chứng tỏ việc lội nước lúc này là rất thích
hợp, chị đi ào ra ngoài. Nước ngập cao hơn. ánh trăng
lan ra rồi tụ vào đằng sau họ. "Đi chơi đi?". Mắt
anh sáng lên, vẻ cay đắng lúc trước biến mất. Chị ngẩng
lên. Tất cả lặng ngắt như họ đang ở trong một miếng
thạch khổng lồ.
Đi mãi. Đi mãi. Lúc nước ngập đến bụng. Lúc đến
đầu gối. Lúc đường khô. Rồi đến nhà anh.
Phố dài, chéo xiên. Hai bên đường, những cây bằng lăng
thấp xòe tán và hoa nở từng chùm. Mong manh mầu tím dai dẳng.
Chỗ thấm, chỗ nhạt. Có chùm hoa dày, bỗng nở tung gật
gù như những đuôi con sói. ánh trăng lấp lóa sau những
chùm lá. "Đẹp quá" - Chị thốt lên. "Đố
em, phố nhà anh có bao nhiêu cây bằng lăng?". Anh dừng
lại cho chị nghĩ, tranh thủ lắp xích xe tuột liên tục
vì ngâm nước mưa. "Khoảng 40 cây". Chị ngập ngừng.
"Cho em nói lại". Họ đi bộ cạnh nhau. Người chỗ
khô chỗ ướt. Trăng cao vời vợi, sáng như ngà. Sau những
trận mưa to, trời thường xanh hơn và mây bay vùn vụt.
"Chắc chắn... hai bên hè, tất cả 108 cây". Anh
cúi xuống bên chị. "108 cây?". Chị nhướng mắt,
hỏi lại. "Em thấy không?" - Anh giơ tay chỉ:
"Phạm nhân đưa về nhốt ở Hỏa Lò. Chuyển sang tòa
xử. Rồi đưa đi cải tạo hoặc...". Anh để tay lên
thái dương "...Bòm". Anh cười phá lên, thả tay
cho chiếc xe đổ và lăn uỵch xuống đất, giả chết. Chị
cúi xuống dựng xe lên, mắng: "Phỉ thui mồm anh. Đừng
đùa thế em sợ". Anh cười: "Anh cao số lắm, giời
đánh không chết. Từ đầu kia đến đây và từ đây về
cuối phố là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc đứng bảo vệ công
lý". Chị nhìn theo tay anh, mặt đần ra. "Bọn anh
đặt tên cho phố này là Công Lý".
Họ đến gần nhà anh. Ngôi nhà kiến trúc kiểu Pháp nằm
sâu trong vườn. Im lìm, le lói ánh điện vàng. Thỉnh thoảng
cây roi rung lên và nước mưa đọng lại rơi lộp bộp
"Mẹ vẫn còn thức". "Bác đợi anh về".
Anh gật. Cả hai dừng lại trên vỉa hè, cùng nhìn qua
hàng rào sắt. "Làm thế nào bây giờ?". Chị lo lắng.
Anh nhìn chị rồi lắc đầu: "Chắc mẹ ngồi tụng
kinh. Không sao đâu". Rồi chủ động, anh dắt xe đi tiếp.
"Lúc nãy anh ném vỡ chiếc lọ hoa". Chị quay sang
mở to mắt ra nhìn. "Và... tan chiếc cassette". Phố
khuya, không một bóng người. Sau cơn mưa tất cả sạch
bong như vừa tắm kỹ. Trăng sáng xanh, lạnh lẽo cô đơn.
Hoa bằng lăng tím quá. "Rồi... chửi bố". Chị thở
dài. "Ông ấy xông vào đập anh. Anh đỡ rồi... đấm
ông ấy một phát". Chị cúi gằm mắt, cắm cúi đi.
Anh chợt thở dài, nói: "Ngày bé, mỗi lần anh đi chợ
với mẹ, mẹ dạy toán bằng cách đếm cây. Lúc đi đếm
dãy bên này. Lúc về đếm dãy bên kia. Một trăm linh tám
cây tất cả. Giờ vẫn còn nguyên". Chị chợt thấy sợ,
người so lại, nép vào anh. Thỉnh thoảng ngoái lại phía
sau như thể bố anh đang đuổi đánh hai đứa. Bên cạnh họ,
Hỏa Lò đen sì, thâm nghiêm, lạnh như một thỏi nam châm
khổng lồ. Chị thì thào: "Cứ mỗi lần qua đây, em sợ".
Anh cười: "Cái bọn bị nhốt vào đây thì có gì phải
sợ. Đáng sợ là những đứa đang lẫn lộn ngoài đường
ấy!". Chị tiếp: "Đã vào đây rồi, coi như xong.
Trong đấy có rộng không nhỉ"?. Anh nói: "Cũng vừa
thôi". "Bây giờ bố anh đâu?". "Mở tủ lấy
tiền và hộp đựng vàng vừa đi. Vội quá, mặc nguyên
chiếc áo dính đầy máu". Chị rùng mình, tự nhiên nắm
lấy khuỷu tay nép vào anh.
Trần tòa cao. Cách quan tòa ngồi trên bục, cách xa chỗ
phạm nhân đứng. Hiếm khi bị cáo không cần luật sư. Không
có đơn kháng án.
Những người đến dự xử đông. Người nhà của phạm
nhân chen vai ngồi dưới, mắt trố lồi nhìn lên quan tòa
không chớp.
Chị nhìn ra ngoài ô cửa.
Mùa hè. Những tán lá dâu da xoan như xanh hơn, trong hơn
bởi những chùm hoa trắng ngà, mỏng manh nặng vít nghiêng
cành. Tiếng chim hót nghe tách bạch, rõ ràng và ve inh inh
hòa bè dày hơn.
Hồi gặp anh trước khi đi Liên Xô học, chị hỏi:
"Anh để mẹ lại một mì nh,
nhỡ có chuyện gì về sao kịp?". Anh cười: "Anh
lo hết cho mẹ rồi. Cách đây một tuần, anh đã chắp tay
lạy bác ấy, xin bác ấy về ở với mẹ". Chị tròn
mắt, chờ đợi: "Bác Tâm?" Anh gật: "Mẹ yêu
bác ấy. Bác ấy cũng yêu mẹ. Nhưng sợ anh. Mọi người
bảo anh là thắng bất nhân. Đến bố đẻ còn đánh hộc
máu mồm nữa là bố dượng? Nói chung làm đàn ông mà vừa
ăn cướp vừa la làng, quá gái đĩ già mồm. Chỉ giỏi đánh
vợ chửi con. Tự va mồm vào bàn lại vu khống thằng con
trai độc đánh thì cũng chẳng còn nhân cách làm bố nữa".
"Anh đi bảy năm?". Anh gật. "Anh về làm ăn, dành
tiền còn về". "Bác Tâm nói gì với anh?".
"Bác ấy ôm anh rồi khóc. Anh cũng khóc". "Bà
ngoại cho anh đi không?". "Bà bảo: Bà già rồi,
không biết khuyên anh thế nào, mà khuyên cũng chẳng được
vì bà và anh cách nhau mấy thế hệ. Xa lắm. Bà chỉ kể
một chuyện, coi như cho anh làm vốn khi xa nhà, sống tự lập".
"Bà kể chuyện gì?". Chị hỏi. "Chuyện một
ông vua nước nọ rất thông minh, giỏi giang, nhìn thấu
lòng người. Ông biết trong đám quần thần có kẻ rắp
tâm hãm hại để cướp ngôi. Ông bèn cho viết vào tất cả
những chén, bát ăn hàng ngày trong cung vua dòng chữ:
"Làm việc này được gì?". Kế hoạch đầu độc
vua đã xong.
Một vị cận thần gần gũi vua bị bọn xấu mua chuộc,
hứa cho bổng lộc và chức vị nếu vua chết. Tham tiền,
tham chức, tên cận thần được vua tin đã bưng chén thuốc
độc đến. Trên đường đi, phần căng thẳng vì hành động
tội đồ của mình, phần vì chút lương tâm nhỏ nhoi cắn
rứt khi mình sắp sửa giết vua, ông vừa đi vừa nhìn chằm
chằm vào bát thuốc. Và thấy dòng chữ. Ông tính: Vua
đang tin tưởng mình. Mình và đại gia đình đang hưởng bổng
lộc của vua. Nay mình thất đức làm phản giết vua. Nếu
sự không thành mình sẽ bị tru di tam tộc. Tên tuổi kẻ
phản nghịch sẽ lưu truyền mãi mãi. Còn nếu vua chết?
Chắc gì bọn cận thần sau khi mình giết vua sẽ giữ lời
hứa? Có khi nó giết mình luôn vì thực chất, mình là
tên phản chủ. Đã một lần phản chủ sẽ có lần phản
chủ thứ hai? Mà cuộc sống bây giờ của mình có thiếu
gì đâu? Cả tiền bạc lẫn chức vị. Làm việc này được
gì? Chẳng được gì mà sẽ mất hết. Chỉ còn bước qua
một bậc cửa nữa là đến trước mặt nhà vua, vị cận
thần đó đã ném vỡ chén thuốc độc, đập đầu xin vua
tha thứ". Chị im lặng. Anh cũng im lặng.
Bây giờ là tháng mười. Heo may về. Trời se se. Nắng
óng vàng rười rượi dè dặt, ngập ngừng những con đường
vỉa hè rộng, ít quán bia hơi và rác. Buổi chiều cuối
cùng của họ kết thúc bằng chuyện của bà. Anh cười nhạt
và buồn: "Bà cho anh đôi hoa tai cũ và câu chuyện
"Làm việc này để được gì?". Còn mẹ. Mẹ cho
anh nước mắt và tiếng thở dài. Rặt thở dài... Còn em.
Em cho anh điều gì?". Chị cúi đầu. Nước mắt êm
êm lăn ướt chỗ ngực áo sơ mi nâu cánh gián. Anh nắm
tay chị, bóp mạnh: "Em cho anh niềm tin rằng dù vui hay
buồn, thành công hay thất bại, dù em có chồng và anh có
vợ, mình vẫn như hôm nay. Cho anh một nơi để ngoảnh đầu
nhìn lại?". Người chị rung rung. Nước mắt giọt
nhanh hơn. "Thôi nào. Cô gái đáng yêu nhất cuộc đời
tôi. Không được thế...".
Ngoài cửa sổ, tiếng ve mùa hè lẫn đi trong tiếng gió
lao xao.
Tiếng những cử tọa trong tòa lúc có lúc không.
- Sau tất cả những tội danh... Tòa tuyên án: Bồi thường
thiệt hại cho gia đình 60 triệu đồng. Tịch thu toàn bộ
tài sản hiện có gồm... Tử hình vì tội cố ý giết người.
Chị đang trôi trên chiếc xe thuyền trong đê m
mưa mênh mông ánh trăng. Tất cả lại như ở trong một
khay thạch đen khổng lồ. Còn anh, sau hơn hai năm ở Liên
Xô, anh trở về. "ối
giời, anh khác quá" - Chị kêu lên, chùi vội hai tay
đang ướt vào hai vạt áo: "Cơm Tây có khác. Trắng thế".
Chị nói mà chẳng hiểu mình đang nói gì. Anh ôm một bọc
to đứng giữa cửa phòng. Rồi nắm lấy tay anh chị kéo
vào nhà. Tất cả vẫn còn nguyên như trước. Anh vừa ngồi
xuống giường thì hắt hơi liên tục. Mặt đỏ.
Mũi đỏ. Rồi cười. Hàm răng bóng trắng. Da trắng. Tóc
đen. Những ngón tay dài thẳng trắng. Vài đường gân xanh
loáng thoáng... Anh lôi trong chiếc túi bóng to đùng dưới
đất ra một chiếc phích đá. Thật là không tưởng tượng
nổi. Nó sáng ánh lên giữa căn phòng cũ một cách thê thảm
trong một tòa chung cư buồn tẻ. Rồi mở nắp ngoài. Xoay
nắp trong. Và lôi ra những cái kem. "Anh mang từ Liên
Xô về cho em đấy. Ăn luôn không chảy hết". Rồi một
túi táo tây. Những quả táo tròn, đỏ bầm và mùi thơm
loang loang. "Đây là túi lưới hai lớp biếu mẹ em. Cây
thuốc Gallant biếu bố... Mảnh vải em may áo... Quan trọng
nhất là cái này". Vừa nói, anh vừa đặt vào tay chị
một chiếc hộp: "Em thử xem có đúng số không? Trong
thư em viết là số 1,5. Có bị lên số không?". Chị
run run, tay cầm que kem tỏa hơi man mát, tay đỡ hộp kính,
chẳng biết bỏ cái gì xuống. "Đưa kính đây cho
anh". Anh mở hộp. Một cặp kính mảnh mai hình bầu dục
mạ vàng. Anh lấy chiếc kính ra khỏi hộp và đeo lên tai
chị. Mặt chị nóng bừng. Ngẩng nhìn anh. "Như một
người khác. Đeo kính này, mắt có vẻ to ra. Hay là anh lắp
ngược mắt?". Cả hai phá lên cười. Chiếc kem bắt
đầu mềm ra và chảy từng giọt đặc quánh xuống đất.
Anh về rồi mà mười ngày sau căn phòng còn thơm. Chị giữ
nguyên những quả táo tròn nhỏ thơm êm dịu. Thoang thoáng
mùi thơm. Mẹ bảo, đấy là mùi tây.
Ba năm sau.
Mùa đông. Lần này anh đến thăm chị không phải ở
chung cư thê thảm được chống đỡ bằng ống nước, dây
phơi mà đến nhà chồng chị. Dù đang mặc áo khoác dày
thế mà thoáng một cái, anh hỏi: "Em sắp sinh?".
Chị cười ngượng nghịu, gật đầu. "Trông em thế
nào ấy nhỉ? Cứ như ai ấy, lạ lắm". "Anh thấy
em giống ai?", chị cúi cúi giấu khuôn mặt to sù,
lông mi lông mày trắng phớ ra. "Giống... bà ngoại
em", anh cười. Rồi chợt tắt ngay: "Bụng em to thế
này, đi thăm bà với anh chắc khó". "Em đi được",
chị hào hứng.
Bất Bạt chiều cuối đông xám xịt. Những bia mộ co
ro đứng dưới mưa phùn. Trời đất giao nhau sũng nước.
Vài đứa trẻ còn loanh quanh mời chào anh chị quét lại sơn,
nhổ tí cỏ. Anh phát cho mỗi thằng một nghìn, nói nhỏ:
"Cút"! Thoáng cái chỉ còn những ngọn đồi thoai
thoải, những tấm bia nhấp nhô trên nền những lùm cây
xa xôi. "Nếu bà không ngã cầu thang, bà phải sống trăm
tuổi". Vừa thắp hương, anh vừa lầu bầu như trách
móc bà. Khói hương đặc quánh trong làn mưa lạnh lây
phây, thơm nồng nàn, nhức nhối. Chợt ngẩng nhìn chị
đang cúi cạnh, xếp những đồ lễ ra đĩa, đặt ngay ngắn
lên mộ: "Làm việc này để được gì? Bà trèo lên
gác xép ở để được gì? Được căn phòng của bà rộng
cho cháu ngoại bà có góc học tập. Đấy là bà nghĩ thế
chứ. Nó có cần học đâu? Còn bà thì ngã cầu thang và
chết". Chị vẫn im lặng. Một cơn gió thốc qua. Những
làn mưa nhỏ chéo xiên kéo theo luồng khói hương tạt sang
phủ lấy ngôi mộ bên cạnh. Chị đưa anh bó hương vừa
đốt, nói: "Anh thắp hương cho hàng xóm của bà đi. Có
họ, bà đỡ buồn". Anh lúi cúi bên các tấm bia. Đất
chật, người đông. Khói hương làm góc nghĩa trang ấm hẳn
lên. Chị nhìn anh. Bụng bắt đầu có mỡ. Tóc cắt cao.
Dù trời sầm sì cũng không làm da anh tái. Môi đỏ. Và thơm.
Đứng bên cạnh chị, anh phân trần: "Bà chỉ thích mỗi
chả rươi. Anh chẳng biết mua cho bà cái gì. Thôi cứ gửi
tiền bà tiêu". Đống lửa hóa mã bùng cháy dữ dội.
Thỉnh thoảng một tay lửa bứt ra, bay lên rồi tắt ngấm.
Bữa cơm buổi chiều ở nhà chị. Có đĩa rau muống luộc
lẫn rau rút. Đĩa đậu phụ rán tẩm hành và những con
cá cơm khô rán, bát muối vừng. Anh không nhai mà nuốt chửng.
Nước rau đánh me trong trong, vàng vàng anh chan hết veo.
Bát cà không còn một quả. "Cậu mà bắt nạt cô ấy,
tôi giết". Anh cảm ơn chồng chị - người đàn ông
đạt một cách tương đối mọi tiêu chuẩn - bằng nụ cười
kèm ánh mắt hăm dọa. Chồng chị hiền lành: "Ai mà bắt
nạt được em anh", rồi bưng chiếc mâm tất cả bát
đũa đều sạch bong đi. Để một gói tiền ra bàn, trong một
chiếc phong bì dài, anh ngượng ngùng: "Em cầm chi tiêu
cho cháu. Lúc em sinh cháu, chắc anh vẫn ở bên kia". Chồng
chị giãy nảy lên: "Lần nào bác về cũng cho quà.
Quà bọn em xin, chứ tiền không dám nhận đâu". Anh lừ
mắt. Từ ngày biết anh, yêu anh, rồi coi anh như một người
tri âm tri kỷ, lần đầu tiên chị thấy anh mắt sắc lạnh
như thể bắn tia về phía chồng chị: "Làm đàn bà khổ
lắm. Cậu phải thương yêu chăm sóc cô ấy. Thiếu gì,
điện sang anh. Mai kia về hẳn, đi làm với anh đỡ vợ".
Hình như chồng chị bắt được ánh mắt truy quét tàn
sát của anh nên không nghĩ đến chuyện trả lại phong bì
tiền, khẽ "vâng". "Đeo thử kính mới anh xem.
Em kiếm ở đâu ra của nợ này? Mọi người khác nhau ở
cái mặt. Đẹp xấu thiện ác là ở cái mặt, em cứ làm
sấu mình đi là thế nào?". Anh đưa vào tay chị một
cặp kính mới: "Số 2 đấy". Chị ngượng nghịu
tháo chiếc kính gọng mica hai mắt to như hai khung cửa sổ
xuống, đeo kính mới vào. "Ngẩng lên anh xem nào. Đời
mới đấy". Gọng titan mềm oặt. Chị ngẩng lên. Mặt
sáng bừng, ánh mắt yêu thương biết ơn lấp lóa sau cặp
kính bóng. "Đấy, thế mới là một cô giáo chứ. Ai lại
như bà già đang móc sợi thuê ấy". Anh nói rồi đứng
lên. Mùi thơm đàn ông phảng phất bên chị khi anh nắm cổ
tay chị, bóp mạnh: "Mẹ tròn con vuông nhé. Anh đi đây".
Mùi thơm theo anh ra cửa. Còn loáng thoáng lại vài ngày
trong hơi đông se lạnh. Thế thôi.
Bất chợt, đôi khi có một niềm vui hay nỗi buồn. Chị
muốn nói với anh. Ba ngày đau đẻ và ra đời một chú
nhóc da nhuôm nhuôm, mắt to, tóc lưa thưa, miệng chíp chíp
đòi ăn. Chị muốn có anh bên cạnh. Từ trong sâu thẳm,
anh luôn tồn tại thật vững chắc. Kiên cố.
Mưa thưa dần.
Những người cùng đứng trú mưa cạnh chị đã đi từ
lúc nào. Không có gì phải vội. Còn gì nữa mà vội. Cuộc
đời của chị sẽ còn rất dài. Đều đều như cả triệu
người trôi như dòng sông hằng ngày ngoài đường buổi sáng
buổi chiều kia.
Ngày mai. Ngày kia. Lâu, lâu lắm sẽ thế nào?
Hồi ấy, chị cứ tự chê mình với những câu rất
thành thật. Còn anh thì áp đ ặt
lại: "Không phải thế. Tại em không chú ý đến em chứ
cắt lại tóc, mặc quần áo khác, là "ngon"
ngay...". Anh thường nói thế và chị cũng tin thế. Hai
năm nay, anh ở Việt Nam. Anh có một công ty xuất nhập khẩu
cả trong nam ngoài bắc. Chị biết là anh ở rất gần chị
nhưng cũng ít gặp lắm. Một lần anh đột ngột xuất hiện.
Mặt nhiều nếp nhăn hơn, quần áo đơn giản hơn. Anh
đưa vào tay chị một gói nhỏ: "Mai em mang đến đưa
cho mẹ hộ anh. Chia làm ba lần may ra mẹ nhận". Chị
tròn mắt ngạc nhiên, tự nhiên mở gói giấy. Những tờ
đôla lạnh và xanh biếc. "Đừng hỏi gì. Cứ chia ba
ra. Bảo mẹ cứ mua thuốc Pháp mà uống. Bệnh của mẹ rời
thuốc ra là đi đấy". "Anh ở đây ăn cơm với nhà
em!". Chị gói tiền, cất vào một túi ni-lông. Tìm khắp
nhà không ra chỗ giấu. Mặt chị căng thẳng. "Em để
chỗ nào vớ vẩn nhất ấy. Đừng cho vào tủ. Bọn trộm
chỉ quan tâm những chỗ kín đáo thôi". "Chưa bao
giờ em nhiều tiền thế này". Chị nói rồi nhét xuống
dưới tờ báo trong ngăn tủ. "Yên tâm đi. Trộm vào
nhà ai phải tìm hiểu thật chắc. Em giáo viên nghèo, nó
vào lấy sách à! Có gì ăn không? Bao giờ bố con nó về".
Còn nhớ, chị cuống lên chạy ra chợ mua đồ ăn theo thực
đơn của anh. Nhoáng nhoàng hai vợ chồng bưng mâm ra. Anh
ôm thằng Bống, chơi với nó rồi hai bác cháu sà vào
mâm. Cả chị và chồng không ăn được, vì nhìn anh. Bát
canh cua khoai sọ nấu rau muống. Vài con tôm đồng rang. Bát
cà chấm mắm tôm. ớt cay. Anh ăn bốn bát cơm. Nói là
sáu tháng mới được một bữa ngon. Chị hỏi: "Anh có
thiếu gì đâu. Nhà to, xe ô-tô đẹp. Sao phải vất vả thế".
Anh cười phá lên. Rồi tắt lịm: "Vào guồng rồi.
Trong một dây xích, mình là một mắt xích. Cỗ máy đang
chạy, không thể tuột một mắt xích nào". "Chả
cấm được ai nếu mình không muốn. Cùng lắm mất một
tí" - Chị tiếp: "Như kiểu bọn em nghỉ mất sức
ấy". Anh lắc đầu, đập tay lên vai chị như vỗ vai
một cô bé: "Không đơn giản như em nghĩ đâu. Guồng
máy của anh khắc nghiệt lắm". "Bao giờ anh lấy
vợ?". Anh cúi đầu im lặng. Rồi nói: "Anh đi với
đứa nào quá lắm được sáu tháng. Luôn là tỷ lệ nghịch
giữa độ dài của chân và độ ngắn của óc. Chỉ giỏi
moi tiền. Khốn nạn. Mình đẻ được ra nó, nó lại nghĩ
mình ngu". Anh lắc đầu, chán không giấu được:
"Anh không lấy vợ đâu. Sau này già, chết, con trai đến
bưng ảnh chống gậy cho bác" - Anh nói và ôm chặt thằng
Bống vào lòng. Chân thành. Đơn giản: "Ăn no chóng lớn.
Sau này mẹ đẻ em bé. Về ở với bác học hành tử tế,
thằng Bống của bác". Rồi hai bác cháu tròn mồm đọc:
"Bống bống bang bang. Mày ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta.
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người". Thằng Bống
ngượng nghịu đọc theo anh. Mặt anh giãn ra. Hôn hít dúi
dụi vào gáy. Rưng rưng.
Loáng cái, anh đã biến mất, nhanh như lúc đến. Nếu
không có túi quà cho thằng Bống và mùi thơm của anh thì
chị không tin là anh vừa ở đó.
Những ngọn đèn đã bật. Chẳng soi sáng được những
con đường nhưng lại rất cần. Chị tin là lúc ấy, ngồi
trong chiếc xe ấy, đi qua con đường này, anh sẽ ngoảnh
nhìn ra. Cũng như chị lúc này, ý nghĩ và bàn chân cứ
hút chị về con đường có một trăm linh tám cây bằng lăng
tím. Có ngôi nhà của anh.
Sau cơn mưa, đến hạt bụi cũng không còn. Tất cả như
vừa tắm gội. Những tán hoa mong manh, chỗ đậm chỗ nhạt
như mầu tranh sơn dầu của một bức tranh phong cảnh khổng
lồ.
Anh căm thù người đàn ông nào đánh đàn bà. Đây là
lần thứ hai anh phạm tội cố ý gây thương tích. Và nạn
nhân thì chết bởi cơn điên của anh.
Chị hỏi anh - lần thăm duy nhất, khi biết tin anh bị bắt:
"Sao anh lại là m
thế?". Anh gầy, da xanh trong suốt. Tóc dài lên và quần
áo làm anh nhỏ lại rất nhiều. Cúi cúi không nhìn chị -
giống tất cả những lần chị cúi không nhìn anh trước
đây. "Anh chứng kiến cảnh nó đánh vợ. Vợ nó lại
đang có bầu. Bao lần nó lừa đểu bọn anh, anh cho qua.
Nhưng cứ đánh vợ là không được. Mỗi lần nhìn thấy
thằng nào đánh vợ, anh lại nhớ ông ấy... và mẹ
anh". Chị thở dài. Phải rồi, đến bố đẻ anh đánh
mẹ, anh còn không chịu nữa là thằng đàn em lừa lọc:
"Thì anh bảo nó. Nghìn thằng như thế có chết, xã hội
cũng chẳng hết những thằng đánh vợ". Chị nhìn anh
đăm đăm. Giống ngày xưa anh hay nhìn chị.
Hôm nay chị diện hơn bình thường. Không phải cố
tình mà chị dùng những thứ anh tặng. Chiếc kính cận số
2 mới nhất. Mảnh vải hoa tím pha đen anh cho đã may thành
áo rất vừa. Và chút nước hoa... Thật mềm mại, sâu lắng.
"Em về đi. Đừng cho mẹ anh biết. Cũng may bà già
kém mắt ít đọc báo...". Anh thì thầm. "Anh cần
gì không?". Anh lắc đầu, cười: "Cần bát canh
rau muống luộc, cần thằng Bống học giỏi... Lớn khôn
còn chống gậy cho bác. Cần cho em nhiều lắm". Rồi lắc
đầu: "Với mình, anh chẳng cần gì. Em biết anh quá
còn gì". Chị nhìn anh đăm đăm. Chưa bao giờ chị nhìn
anh kỹ thế: "Anh nhớ bà ngoại không?". "Anh
nhớ. Bà đã cho anh câu chuyện "Làm việc này được
gì?". Anh nhắc lại, giọng đều đều, đầu gật gật.
"Sao lúc sắp giết nó, anh không tự hỏi - Thằng này
chết anh được gì?". Chị cáu giận dần lên. Anh cụp
mắt xuống, thở dài: "Có phải lúc nào cũng tự hỏi
và trả lời được thế đâu. Nhất là trong cơn điên.
Mà mọi điều tốt đẹp chỉ đến khi người ta bình tĩnh".
Chị cáu: "Anh thì nói hay lắm". Anh nhìn, ánh mắt
thẳng chiếu xuyên qua chị. Không cụp xuống như trước nữa.
Anh hiểu chị giận anh. "Anh" không phải là kẻ giết
người...". Chị tiếc tất cả những điều tốt đẹp
hay sự tồi tệ. Cái tốt đẹp đã hết và điều tồi tệ
đang bắt đầu. Hiểu rõ một thứ tình cảm trên tất cả
mọi thứ tình cảm mà anh chị đã có với nhau. Qua cơn sốc,
chị dịu lại: "Anh có dặn gì em không?". Rồi chợt
ân hận tê tái là tại sao mình lại thốt ra câu đó. Nó
chỉ dành cho những cuộc chia tay. Mà chị không muốn thế.
Anh lắc đầu, thì thầm: "Anh tin là em biết làm mọi
điều giúp anh. Chỉ tiếc... mọi chuyện bất ngờ quá.
Anh không kịp đưa cho em cái gì". Chị lắc đầu, môi
cắn chặt. Chị biết, khi chia tay anh, ra khỏi cánh cổng
trại giam kia, chị sẽ khóc. Chị đâu cần tiền bạc của
anh. Dù trước khi giết người, anh rất giàu. Chị cần
anh là anh, là những điều tốt đẹp như một khoảng trời
nhỏ. Một bức tường có mái che đằng sau lưng. Mỗi lần
đuối sức hay thất bại trên đường đời, chị có chỗ
lùi lại, tựa lưng và thở. Rồi đi tiếp .
Có những tiếng cười vỡ ra trong phố vắng của bọn
trẻ đi qua.
Chị dắt xe đi dọc phố một trăm linh tám cây bằng lăng.
Một mình. Nhìn đâu cũng thấy chiếc xe xanh sẫm kín như
một chiếc hòm - Hỏa Lò thu nhỏ với những chấn song sắt
bé lừ lừ chạy trên đường. Đằng trước, đằng sau có
xe cảnh sát hộ tống. Mỗi lần có đoàn xe đó đi qua, ai
cũng ngoái lại nhìn. Đã nhiều lần chị nhìn theo những
chiếc xe đó, cảm thấy cuộc sống sạch đi một hạt bụi.
Con đường bớt đi một viên sỏi dễ làm người ta ngã.
Chị chỉ thấy dòng sông. Một dòng sông sóng sánh ánh
trăng giữa cái chung cư mốc thếch, già nua. Có chiếc xe
thuyền trôi làm vỡ ánh trăng.
Vô thức. Chị đã đi hết phố. Hết một trăm linh tám
cây bằng lăng tím đậm, tím nhạt rập rình trong gió.
Nhiều lúc nhãng đi. Cứ tưởng lại như ngày xưa. Thỉnh
thoảng chị tan học sớm, đến nhà chờ anh về. Ngó vào
thấy mẹ anh lụi cụi. Chị dựng xe ngoài cổng. Đi dạo
dọc phố một mình và đến những gốc cây đã thuộc vẫn
thích đếm.
Đừng dồn ai đến bước đường cùng. Đừng gây lòng
hận thù và đừng làm ai căm thù mình quá. Lúc bố anh đánh
mẹ anh, bố anh chắc không nghĩ nó sẽ thành tiềm thức
để anh trở thành kẻ giết người?
Đi đâu bây giờ nhỉ?
Cổng tòa án ở giữa ngã năm. Một trăm linh tám vị
anh hùng Lương Sơn Bạc đứng canh phố Công Lý.
Vẫn uy nghiêm, đen thẫm một góc bên cạnh một tòa
tháp cao vút, sáng đèn. Giờ đây không phải là nơi giam tù
nhân nữa. Hỏa Lò bây giờ chỉ dành cho khách tham quan.
Chị tin là ngày xưa, anh và lũ trẻ ở phố chắc phải
đá bóng bắt xe ở sân tòa này suốt cả tuổi thơ. Bây
giờ sẽ không bao giờ còn anh để chị hỏi điều đó.
Lúc xe chở anh đi qua, anh nghĩ gì khi nhìn về nhà mình?
Ngôi nhà mà chỉ cần vài bước chân là đến. Và một trăm
linh tám người bạn.
Ba vòng phố.
Rồi bốn vòng.
Chị có thể đi mãi thế này đến sáng.
Đi thế này để được gì?
Để thấy lại những gì đã qua và những ngày sẽ đến.
Để hỏi và tự trả lời.
Đến bây giờ chị mới hiểu là không được sai lầm.
Dù là nhỏ. Không phải lỗi lầm nào cũng có thể nói lời
xin lỗi hay sửa chữa, chuộc lại. Có những sai lầm phải
xin lỗi bằng sự chết.
Chị cay đắng sau lần thứ năm đi dọc phố một trăm
linh tám cây bằng lăng để quyết định lên xe về nhà
khi nhận ra những điều nhỏ nhoi nhất là nếu có đi thế
này mãi cũng chẳng có ai chờ chị ở cuối đường. Và
những điều mơ ước ngày xưa của anh chị sẽ không làm
được một việc gì, dù nhỏ nhất.
Hà Nội 17-5-2002
Nguyễn Thị Thu Huệ
|