Anh thường kể những chuyện gắn bó với
một dòng sông.
- Sương biết không, chính trên
cánh đồng ven đê, khi đào mương, bọn anh đã vớ
được những cây gỗ lim vót nhọn đầu, những nhà khảo
cổ xác nhận đó chính là chiếc cọc xưa Trần Hưng Đạo
đã dùng đâm bể những chiếc thuyền của quân Nguyên...
- Trời! Phải chi em được ra quê
anh một lần!
- Chắc có ngày ấy thôi. Chỉ
e... em không có lòng.
Câu nói rụt rè và như thể bâng
quơ ấy cứ rung mãi trong tâm hồn cô. Anh không sôi nổi,
có duyên như anh Phương quê Hà Nội, anh cũng không tốt giọng
để hát những làn điệu chèo uyển chuyển và tình tứ
như anh Nhữ tóc xoăn quê Thái Bình... Anh chỉ có những
câu chuyện. Vậy mà dư âm của nó cứ làm Sương bâng
khuâng.
Ra ở đâu cũng vậy thôi - cũng
sông nước, cũng ruộng đồng, cũng cấy cày, gặt hái, cũng
những xóm thôn... Đất nước hiện lên trước hết từ một
xã Tăng Hòa chôn rau cắt rốn của cô tới một miền xa lắc,
nơi có tiếng kẻng gọi người mỗi sớm mai ra đồng,
nơi ngày mùa lúa chất đống ở những sân kho, và có những
ngày hội cổ truyền... Ôi, phải chi, phải chi...
Năm ấy Sương mời sáu tuổi.
Sương được các anh đưa lên
khu học văn hóa, rồi theo học lớp y tá ngắn ngày. Xong
cô được điều về ở huyện đội.
Các anh ấy đến cơ quan
huyện đội từ lúc nào lặng lẽ và khiêm nhường. Ngày
ấy cực lắm. Miền Tây Nam Bộ là vựa gạo, nhưng hạt gạo
từ vùng dân ra "cứ" nhiều phen thấm máu. Đêm đêm,
các anh đi. Đi đâu, làm gì, chỉ ban chỉ huy và các anh
hay. Vất vả thế, sáng về, khi có vài chén cơm, khi một
phong lương khô, cũng có khi chỉ cháo loãng. Chú huyện đội
trưởng bảo Sương:
- Cháu phải chăm sóc những
chàng Yết Kiêu này thật chu đáo, nghe!
- Yết Kiêu là chi chú? - Sương
ngây thơ hỏi.
- à Yết Kiêu là... là những người
bơi lặn giỏi, làm nổi những công việc lớn - Chú cười,
tiếng cười thật vui, hồ hởi và tin cậy.
Sương không biết nói gì thêm.
Cô cố gắng chăm sóc các anh chu đáo như lời dặn dò của
người chỉ huy. Cô kiểm tra mùng khi các anh đã ngủ, ép
các anh uống hết liều thuốc phòng sốt rét, la những ai
vô ý có thể làm các anh thức giấc... và Sương lặn lội
tìm hái quả mắm mang về luộc, bắt cáy nấu canh với
lá rừng, cải thiện bữa ăn.
Chiều ấy khi nước đã lùi xa
về biển, Sương vừa lội xuống bãi, bỗng nghe tiếng
gọi phía sau. Cô giật mình ngoái lại:
- Trời, anh Hải! Anh làm em...
Sao anh không chịu ngủ?
- Bụng lép kẹp, ngủ nghê sao
được!
Anh ngoẹo cổ, mắt nheo nheo nh
thể khôi hài, nhưng Sương chợt nghe buốt nhói trong ngực.
Cô nhận ra gương mặt hốc hác và tái sạm của người
chiến sĩ với bao thiếu thốn anh đã phải chịu đựng.
- Bữa nay Sương cho tôi cộng
tác với.
Anh vừa nói vừa cúi xuống vuốt
nhanh hai ống quần.
- Con trai miền Bắc hổng quen việc
mò cua bắt ốc đâu anh ơi!
Sương vội ngăn, nhưng anh đã hăm
hở sục chân xuống bùn. Đôi mắt dài thường tít lại mỗi
khi vui cười, lập tức trở nên tinh nhanh trước những vật
chấm li ti trên mặt bãi. Phút sau anh cúi xuống túm gọn một
lúc hai con cua bên gốc cây trang.
- Đây rồi!
Anh cười hồn nhiên quá. Sương
càng ngạc nhiên. Đôi bàn chân to khỏe của anh bước trên
bãi hà táo bạo và nhanh nhẹn như người ta đi trên đường
phẳng. Giữa vô vàn những miệng lỗ dày đặc, anh gọi
ra đâu là lỗ còng lỗ cáy, đâu là hang ổ của nhệnh, của
hớp.
- Sương biết không, bãi sông
quê tôi cũng nhiều cá lắm. Mùa này tôi thường đi bẫy
nác. Những chiếc bẫy làm bằng tre giương trên miệng lỗ.
Những chú cá nác nhắm tít mắt, vừa ngoi lên vừa lắc lắc
cái đầu rũ bùn. Pựt! Thế là cu cậu bị chặn cổ.
Chà, cá nác nấu với dọc mùng! Sương biết dọc mùng
không?
Vừa nhẹn tay xắn đất chặn bắt
những chú cá thòi loi, anh vừa say sưa kể chuyện. Chưa
bao giờ Sương thấy anh vui thế, cởi mở thế. Cô mải
nghe, cứ xách giỏ theo anh lúc nào không hay. Những kỷ niệm
về anh sao đằm thắm thế. Sao anh có thể nói về quê hương
mình hay đến vậy, dù khi anh chỉ nhắc tới một buổi
đi kiếm mật ong giữa rừng nước mặn, một buổi tối bạn
bè rủ nhau đi chao cá tối ven sông, hay một mùi thơm của
quả lậu chín vào hồi tháng bảy...
*
* *
Giờ đây, trước mặt Sương,
con sông Bạch Đằng cồn lên những đợt sóng bạc đầu.
Con sông quê anh. Con sông trong những chuyện anh kể... Khu rừng
lậu ven đê mới bắt đầu đâm chồi sau những ngày rét
mướt, những hơng hoa sú đã ngọt lịm trong gió đông.
Và lúc này, con sông mênh mang hơn nhiều, sôi động hơn
nhiều trong trí tưởng tượng của cô, những con tàu lừng
lững. Những đoàn sà lan nối dài và buồm nâu rườm rợp.
Dòng sông huyên náo trong tiếng còi xin luồng, tiếng động
cơ, tiếng những ngọn sóng chồm lên bị chẻ xé, bị khuấy
sôi. Không xa nơi Sương đứng là xưởng sửa chữa tàu thủy
đang ầm ầm những âm thanh hỗn độn, chói gắt ánh lửa
hàn. Xa hơn, một dải khói xanh đục bí ẩn tuôn lên từ
trong khe núi.
- Đấy là nhà máy đất đèn, một
cơ sở hóa chất mới xây dựng. Nghe nói đất đèn của
ta được khách nước ngoài chuộng lắm, nhng không có mà
xuất khẩu vì dùng trong nước còn chưa đủ. Hiện nay chúng
ta đang tiếp tục xây thêm những lò có công suất cao hơn.
Bé, cô bí thư xã đoàn Ngũ Xã
có vóc người chẳng hợp với tên cô chút nào, trân trọng
giới thiệu cùng đoàn khách từ miền Tây Nam Bộ xa xôi tới
đây tham quan. Nhiều cặp mắt mở to trước cô, không chỉ
thông thạo công việc đồng áng, mà còn tỏ ra am hiểu
tình hình trong vùng.
Sương không chen hỏi về khu cảng
than, về vùng đồi thông xanh hút tầm mắt phía bên kia
sông. Cô lặng ngắm dải sóng trắng xóa chảy suốt sát
chân đê ra quá giữa sông, một đàn hải âu đông ngộn
đang nhộn nhạo, đang sắp vụt tóa lên khỏi mặt nước.
Ban nãy Bé giới thiệu đấy là Ghềnh Cốc - một bãi đá
ngầm. Nơi đây bảy thế kỷ trước, quan quân nhà Trần
đã lợi dụng nó như một bãi cọc trong trận thủy chiến
lừng lẫy tiêu diệt quân xâm lược. Giữa tiếng ồn ào
của biển lớn ngoài kia đang lúc triều lên, tiếng nổ rền
của những loạt mìn phá đá phía thượng nguồn, nỗi bồn
chồn vẫn không lắng lại trong lòng Sương. Cô kín đáo
nhìn nhanh gương mặt cô bí thư xã đoàn. Bé nghiêng
nghiêng đầu đưa tay cài gọn lại mái tóc. Chiếc áo cộc
cổ màu gụ rất vừa vặn, hài hòa với nước da nâu mịn
của cô gái miền duyên hải. Vẻ đẹp riêng biệt của
cô gái ấy giữa đám đông khiến Sương liên tưởng với
cô gái trong những câu chuyện anh Hải kể hồi nào. Và
cô xúc động nghĩ rằng mình đã đoán không nhầm. Giữa
lúc ấy Bé chợt nở nụ cười duyên dáng, chỉ tay xuống
khoảng đất trước mặt mọi người:
- Báo cáo các đồng chí, đây
là trận địa súng máy cao xạ của dân quân xã chúng tôi
trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại. Anh chị em đã
diệt hai máy bay phản lực Mỹ, một chiếc đâm đầu ngay
xuống cuối Ghềnh Cốc kia, một chiếc cố bơn ra được
đến cửa Nam Triệu...
Tất cả cùng "ồ" lên
một tiếng thán phục, và ai nấy cùng nhìn vội xuống
cái nơi bây giờ chỉ là một màu xanh nhu mì những vạt
ngô.
Từ bấy giờ cho hết buổi tham
quan là những câu hỏi dồn dập về chiến thuật, về kiểu
loại những chiếc máy bay giặc phải đền tội, về cấp
bậc, quê quán thằng giặc lái bị bắt sống... Riêng những
câu hỏi về người chỉ huy trung đội dân quân hồi ấy,
Bé chỉ trả lời qua loa đó là một đồng chí gái, nhưng
hai vành tai cô thì cứ đỏ tía lên. Mỗi lúc Sương một
náo nức, cô phải cố ghìm câu hỏi riêng của mình
trên đường về làng, chờ lúc Bé hơi lùi về
phía sau, Sương bước lại gần. Và như hụt hơi vì hồi
hộp, Sương hỏi:
- Cô... cô có biết nhà anh Hải?
- Anh Hải? - Bé dừng bước,
ngước cặp mắt trong suốt nhìn Sương, hàng lông mày cong
cong rớn xếch lên vùng trán có nếp nhăn đột nhiên:
- Chị quen anh Hải?
- Phải chị quen - Sương cảm giác
tiếng nói mình nhỏ quá.
- Trời ơi! Anh trai em đấy.
Bé reo to, bàn tay bá lên vài Sương,
lắc mạnh.
Sương thấy tức thở:
- Anh Hải... Anh Hải bộ đội,
cô à.
- Đúng rồi, anh Hải em đi bộ
đội, vào Nam chiến đấu gần mười năm, vừa rồi mới
ra nghỉ phép. Tiếc quá! Anh em vừa lên đường hôm qua.
Bé càng sôi nổi và như những
cô em gái khác, phát hiện điều bí mật ở anh trai, đôi
mắt cô càng rực lên vẻ thích thú.
- Không... Không... - Tiếng Sương
đứt quãng - ở vùng trong chị trước đây có anh tên là
Hải đến hoạt động một thời gian. ảnh bảo quê ảnh
ở ven sông Bạch Đằng này. Mà anh hy sinh rồi, Bé ơi!
Sương nói nhanh câu cuối và lại
thấy nóng rực hai mi mắt. Cô vội ngoảnh nhìn ra cánh đồng.
Cánh đồng như thể bồng bềnh trước mặt. Và lúa, lúa
đang thì con gái ràn rạt xô cái màu xanh ngút ngát tới
chân đê, với những tia nắng vàng rực cứ rung rinh, rung
rinh.
- Thế thì anh ấy không ở xã
em. Xã em có bốn anh Hải đi bộ đội, đều đã về
cả. Chắc anh ấy ở xã khác. Chị xem, dọc hai bờ sông
có bao nhiêu là làng mạc thế kia...
Sương nín lặng. Con bói cá đậu
trên đường dây cao thế đang thu mình bỗng giật mình bay
đi, tiếng "các các" xa dần về phía rừng rậm.
Buổi tối, đoàn khách tham quan
được mời xem vở chèo do đội văn nghệ xã tự biên tự
diễn. Vở chèo nói về công cuộc khai hoang lấn biển.
Bây giờ, Bé trở thành cô dân công có nhiều sáng kiến
trên công trường. Cô lưu luyến tiễn dặn người yêu
lên đường chiến đấu sau bao ngày cùng nhau đắp đê, nhổ
sú...
"Rủ là - rủ nhau ới là xuống
biển...
Lời ca ấy cùng làn điệu dân
ca ấy Sương mới nghe lần đầu. Và rõ ràng tích chèo chỉ
nói về những người sản xuất, vậy mà Sương không cầm
nổi nước mắt. Chao ơi, có lẽ nào, chính tâm hồn của
anh, tâm tình của mình, giờ mới được gọi ra, được cất
lên bằng một giai điệu tuyệt vời đến thế!
"Rủ nhau xuống biển mò cua
"Đem về nấu quả mơ chua
trên rừng
"Anh ơi gian khổ đã từng
"Non xanh nước biếc ta đừng
quên nhau...
Chiều ấy nắng cũng vàng như nắng
chiều nay giữa đồng làng Ngũ Xã.
"Đêm nay xong việc, ngày mai
ta lại đi lên bãi nghe Sương".
Lần đầu tiên anh kín đáo nói với Sương
bằng giọng Nam Bộ. Rồi chia tay. Ba người, mỗi người một
ba-lô thuốc nổ, đi theo con đường mòn dẫn ra phía bờ
sông. Ngày hôm sau anh không về đúng hẹn. Chỉ biết chiếc
cầu trên tỉnh bị đánh sập, giặc đang lồng lên,
đang chặn bủa các ngả sông, các ngả đường. Hôm sau nữa
các anh vẫn không về tin được phổ biến chính thức
trong cơ quan: trên đường rút ra, các anh sa vào ổ phục
kích của giặc. Và sự im lặng kéo dài sau đó báo với Sương
rằng anh và đồng đội anh đã hy sinh.
Sương đang sống những ngày cuối cùng ở
miền bắc. Hà Nội mùa hè trời trong vắt, hồ trong vắt.
Đi dưới những hàng sấu um tùm lá biếc, Sương bồi hồi
nhớ những hàng me quê nhà. Chương trình rút ngắn, chỉ
còn ít bữa nữa Sương đã phải về với làng quê phương
nam, lại đi dưới những hàng cây quen thuộc ấy, lại
thích thú để mặc những cánh hoa vàng nhỏ xíu trút xuống
đậu trên mái tóc. Và những bãi triều đất bồi ra bao
la ven sông mỗi khi nước xuống. Những bãi triều năm xa
hai người vẫn đi qua...
- Chị để lại địa chỉ cho em. Có thể
em sẽ hỏi bạn bè ở những xã bên, chắc em tìm được
gia đình anh ấy...
Lúc chia tay, Bé hẹn vậy.
Nhưng sao mãi hôm nay Sương vẫn chưa thấy
thư báo của Bé gửi tới. Giữa tiếng ve ran ran, Sương bỗng
gặp mình đang hát. Và lạ lùng thay, tiếng hát lại có thể
hay như vậy, luyến láy đúng như vậy, với một làn điệu
dân ca mới được nghe lần đầu.
"Rủ là rủ nhau ới là xuống biển..."./.