Nhạn và Phong là một đôi nam nữ sinh viên xuất sắc
nhất của khoá 42 Đại học Y khoa. Cả hai đều có
nhiều điểm nổi trội hơn các sinh viên khác. Phong, đẹp
trai, vạm vỡ, khôi ngô và thông minh nhất trong phái
khoẻ. Còn Nhạn, xinh gái, đức hạnh, học lực nổi
bật nhất trong số phái yếu của trường. Thời kỳ còn
đang học hành, hai người đã được các bạn "gán
ghép". Và trong lòng riêng cả Phong và Nhạn đều âm
thầm chấp nhận sự gán ghép đó với niềm vui chứa
chan.
Sau thời gian đi thực tập ở các cơ sở y tế trở
về trường, mỗi người đều thật sự hạnh phúc khi
được nhận một chứng chỉ bác sĩ loại ưu. Ngoài ra,
cả hai còn có một niềm vui vô biên là họ cùng có
chung một chứng chỉ hôn nhân màu hồng đào xinh xắn.
Họ sống với nhau rất mực đằm thắm được hai tháng
thì chiến tranh đến gõ cửa buồng hạnh phúc của họ.
Như người ta nói: khi thần chiến tranh đến tìm, có nghĩa
là đàn ông phải hiến máu, còn đàn bà thì hiến nước
mắt. Chiến tranh xé tan những đôi người này và cũng
chắp ghép những đôi người khác lại với nhau.
Nhạn được điều động về phụ trách một cơ sở
nội khoa ở ngay quê hương - một tỉnh đồng bằng. Còn
Phong số phận dành cho kiếp trai nhiều khắc nghiệt hơn,
trạm phẫu thuật tiền phương, kéo anh vào tận cực
nam, rồi từ cực nam sang miền viễn tây một mạch 7 năm
trời cho đến khi nằm trong đôi bàn tay mềm mại của
người vợ không phải là tấm thân yêu quý của người
chồng là một tờ giấy... báo tử đã hoen ố mưa và
nắng.
Nhạn đã hiến dâng một lượng nước mắt nhiều
gấp bảy lần những người đàn bà khác. Nhưng chị
vẫn đứng vững và phải đứng vững.
Thời gian trôi đi... Bây giờ chị là bệnh viện trưởng
kiêm chủ nhiệm khoa nội sau năm năm trời nữa, chị
quyết định dành cho mình một chức năng thiêng liêng,
ấy là quyền được làm mẹ, nhưng không phải quyết định
lấy một đời chồng thứ hai, mà là thụ tinh nhân tạo
bằng tinh trùng người đàn ông nào đó vĩnh viễn được
giữ bí mật. Thực hiện cái công việc thiêng liêng và
nhân đạo này, đối với một phụ nữ bình thường, cũng
không phải là điều khó khăn, huống hồ đối với
một nữ bác sĩ nổi tiếng về tài năng và đức hạnh.
Cũng có người phản đối Nhạn trong việc này. Đó là
bố mẹ chị và cô em gái. Họ khuyên Nhạn nên đi bước
nữa, vun đắp lại một hạnh phúc đã bị chiến tranh
huỷ nát. Xét về mặt pháp lý và đạo đức Nhạn
chẳng có lỗi gì. Đồng chí, bạn bè và cả những người
chị quen sơ thôi, cũng đều thành tâm mong Nhạn đi theo
con đường đó. Song Nhạn vẫn khăng khăng chọn con đường
thứ hai. Nàng không cổ hủ bị gò trói vào đức hạnh
cổ xưa "gái chính chuyên chỉ lấy một chồng",
mà thực tâm từ trong sâu thẳm của con tim, từ một
linh giác huyền bí nào đó vẫn âm thầm vang lên trong lòng
Nhạn một câu nói: "Anh ấy sẽ trở về. Cho dù
trong cõi chết thật sự, anh ấy vẫn sẽ trở về".
Một cháu gái bụ bẫm không có bố đã chào đời sau
chín tháng mười ngày người mẹ mang nặng đẻ đau.
Nhạn đã được làm mẹ. Nàng hạnh phúc, nhưng đó là
niềm hạnh phúc chưa trọn vẹn bởi vì trong tim nàng
vẫn canh cánh niềm mong ngóng người chồng thương yêu
kia trở về. Đứa trẻ lớn dần lên, niềm tin của nàng
cũng lớn dần lên, toàn tâm toàn ý vững tin vào một
sự thần kỳ.
Và sự thần kỳ đã xảy ra thật. Khi bé Nhan, con gái
yêu của Nhạn buổi đầu tiên cắp sách đến trường
thì cũng là ngày trong bệnh viện người ta chuyển cho nàng
một bức điện báo từ quê hương gửi lên: "Phong
đã về!".
Nhạn gần như ngất đi vì sung sướng. Nàng bủn rủn
hết cả chân tay. Niềm vui khiến trái tim tưởng chừng
có thể vỡ vụn. Bệnh viện cho ôtô nhỏ đưa nàng băng
vút về quê hương. Bản thân sự sống sót của Phong cũng
là một câu chuyện kỳ diệu. Anh bị thương nặng từ
chiến trường viễn tây, rồi bị bắt làm tù binh. Vết
thương quá nặng, tiếp đến là những cơn sốt rét
rừng cộng với những kiểu cách ngược đãi tù binh
thật sự rùng rợn, song nhờ vào sức trẻ sung mãn và
nhất là nhờ vào ý chí mãnh liệt, cho nên Phong đã năm
bảy lần chiến thắng thần chết. Anh đã thoát khỏi địa
ngục nhờ vào sự hoà hoãn trên chính trường và những
cuộc trao đổi tù binh tuy ngặt nghèo nhưng may mắn.
Khi vươn tay ôm lấy vai chồng, đôi môi run rẩy bật
ra được hai tiếng "anh Phong", thì sau đó Nhạn
ngất đi thật sự. Cơn choáng không kéo dài lắm. Chỉ
cần một ống thuốc trợ tim của Phong, người vợ đã
hồi tỉnh, rồi trở lại trạng thái bình thường rất
nhanh. Bây giờ, niềm vui hoàn toàn chi phối, nàng tươi cười
nhìn chồng, nhìn bố mẹ chồng và mấy cô em chồng cũng
đang có mặt tại gia đình.
Song ngay lập tức, nàng tan biến mọi hào hứng, vì
nhận thấy vẻ lạnh nhạt trên khuôn mặt của từng người.
Cả Phong cũng thế. Anh buồn rầu, lạnh lẽo nhìn Nhạn
đăm đăm, rồi cay nghiệt hỏi:
- Cô đã có con với thằng nào?
Nhạn rụng rời cả hồn vía. Trời hơi lạnh, mà mồ
hôi hột long lanh từng hạt trên khuôn mặt tím ngắt
của nàng. Nàng oà khóc nức nở:
- Trời đất ơi... Sao anh nỡ hỏi em như thế?
Phong vẫn lạnh lẽo pha chút đau khổ:
- Nếu không hỏi cô, thì tôi biết hỏi thằng nào?
Những người trong gia đình đều lặng lẽ rút xuống
nhà ngang. Riêng bà mẹ chồng trước khi bước qua bậu
cửa, đã bảo con trai một câu hiền từ nhưng khủng
khiếp:
- Mày "chết" đã mười mấy năm, thì trách móc
người ta mà làm gì? Cả xã này, cả nước này, những
chuyện ấy nhan nhản ra. ở được cùng nhau thì ở, không
ở được, thì lìa nhau ra, hà tất phải lục vấn?Phong
hỏi dồn dập thêm Nhạn mấy lần nữa. Nhạn dần dần
lấy lại điềm tĩnh như những lúc nàng chủ trì các
cuộc hội nghị trước những "ca" hiểm nghèo. Nàng
nhẹ nhàng đáp:
- Sau khi có giấy báo tử về anh, bảy năm sau em mới
thụ tinh nhân tạo.
Phong cười khẩy:
- Không "nhân tạo" thì "thiên tạo" à?
- Em đã quyết ý không lấy chồng vì vẫn tin rằng
sẽ có ngày anh trở về, mặc dù cả vạn người chẳng
ai tin có chuyện thần kỳ đó.
Cảm ơn, cảm ơn cô nhiều. Những việc thụ tinh của
cô cứ cho là thật đi, thì liệu có là cái cớ để che
đậy những sự thật đau đớn cho tôi không?
Nhạn đau đáu ngắm chồng, nàng thấy thương chồng vô
hạn. Chiến tranh đã làm cho anh ấy khốn khổ về thể
xác, và cũng làm cho anh ấy bị chấn thương và méo mó
cả lý trí nữa. Nàng quyết định không tranh cãi cùng
chồng nữa. Bị xúc phạm ghê gớm song nàng đã tha thứ
cho chồng, cũng như "trời đất" đã tha thứ cho
nàng mà đem anh ấy về tặng lại cho nàng.
Nàng chỉ thật sự cảm thấy chết đi khi Phong yêu
cầu anh chàng lái xe đưa vợ quay ngay trở lên bệnh
viện. Từ đó không bao giờ Phong gần vợ nữa, cho đến
khi anh xin ly hôn và cưới ngay một cô văn công của
tỉnh nhà, do mẹ anh chọn cho.
Bé Nhan đã học hết cấp một. Nó khôn lớn nhí
nhảnh và thông tuệ một cách lạ lùng. Tạo hoá còn ban
cho nó một đặc ân nữa là hoàn toàn giống mẹ như
tạc, từ dáng đi, điệu đứng, nước da mịn màng đến
khuôn mặt bầu bĩnh, hiền từ. Báo hiệu rằng ngày sau
xã hội sẽ có thêm một phụ nữ thuần hậu, nhân từ
nữa. ở góc bàn học của nó lúc nào cũng có tấm ảnh
tráng kiện, xinh trai của Phong mà nó luôn luôn tự hào
về người bố tử sĩ của nó.Nó chưa đủ tinh khôn để
hiểu, và mẹ nó cũng không cho nó hiểu hững việc xảy
ra trong thế giới người lớn. Nó không thể biết rằng
nó đã ra đời như thế nào. Nó không biết
"bố" Phong nó còn sống, trở về đang công tác
tại một bệnh viện ở một tỉnh gần đó và hiện cũng
đã có một đứa con trai chừng ba bốn tuổi. Nó lại càng
không rõ rằng "bố" Phong của nó ngày một nhanh
chóng thăng tiến trên đường công danh và luôn luôn
dẫn đầu các đoàn đại biểu y tế của nước ta đi công
tác tại các nước bạn để diễn thuyết về sự ghê
tởm của chiến tranh.
Nó chỉ biết có một điều là gần đây luôn luôn có
chú này, bác nọ, những người tử tế, mái tóc đã
lấm tấm điểm bạc thường đến thăm mẹ nó, ngồi nói
chuyện khá lâu với tư thế nghiêm trang, hoà nhã. Song điều
kỳ lạ là, với ai, mẹ nó cũng chỉ hiền hậu mỉm cười,
lắc đầu nhè nhẹ và nói một tiếng "không!",
chỉ đủ nghe, nhưng rất mực cương quyết.
Ban đêm, đôi khi mẹ Nhạn ấp chặt nó vào khuôn
mặt của mẹ và nó cảm thấy má nó sũng ướt.
- Mẹ ơi, mẹ khóc đấy à, mẹ?- ừ, mẹ khóc con
ạ.- Mẹ thương nhớ bố Phong phải không?
Người mẹ nghẹn ngào trả lời con:
- Không... à, mà đúng! Mẹ nhớ bố Phong.
- Cô giáo con bảo những liệt sĩ hiến dâng sinh mệnh
cho đất nước, đất nước sẽ đời đời ghi công.
- Đúng thế con ạ. Riêng con, con sẽ càng phải xứng
đáng với bố con.
- Có. Con hãy mãi mãi ưu tú cho bố vui lòng.
- Thế thì mẹ phải vui lên chứ?- ừ, mẹ vui lắm.
Vui vì con. Vui vì bố con.Nói đến đây thì Nhạn ghì
chặt con gái mà hôn và khóc nức nở, cổ họng nghẹn
tắc, không nói được gì nữa.
Đến lượt bé Nhan xúc động. Mẹ nó khóc mãi,
khiến nó mủi lòng, sau một lúc dồn nén, không chịu
nổi nữa, nó cũng vòng tay ôm chặt lấy cổ mẹ, áp má
vào má mẹ mà khóc nấc lên từng hồi.
Khóc được một lúc, đứa bé thông minh liền lái
mẹ sang cảm xúc khác:
- Mẹ ơi, có phải ngày mai dì Nhàn từ dưới quê lên
đón con về nghỉ hè với ông bà ngoại, với các cậu,
các dì không?
Nhạn trả lời con gái trong tiếng nấc:- ừ mai dì Nhàn
lên đón con.- ứ! Con muốn ở lại cùng mẹ.- Mẹ phải
đi học bổ túc nghiệp vụ chừng hai tháng. Suốt hai tháng
ấy, mẹ bận lắm. Con về quê cho ông bà ngoại và các
cậu các dì đỡ nhớ. Rồi mẹ sẽ về đón con trở lên
Hà Nội.
- Những hai tháng, con không muốn đi lâu như thế!
- Vì sao nào?
- Vì... mẹ hay khóc đêm. Không có ai thương mẹ...
- Nhạn phì cười. Chị vừa trào nước mắt, vừa ôm
ghì lấy con gái.
Bé Nhan về quê ngoại cùng dì Nhàn đã được nửa tháng.
Trong nửa tháng ấy, nàng mới nhận thấy rằng mình đã
nhầm quá đỗi. Sự thật là nàng có phần nhẹ nhõm hơn,
nhiều thời gian hơn để nghiền ngẫm về những chương
trình bổ túc nghiệp vụ và dần dần hoàn chỉnh ở
trong đầu một dự án phó tiến sĩ: Những "thu
hoạch lâm sàng về bệnh bạch hầu" của trẻ em.
Chỉ mới tạm xa con gái có nửa tháng, Nhạn đã cảm
thấy khiếp hãi vì cô đơn, khổ sở vì nhớ thương và
day dứt vì nỗi khao khát có con bên mình. Mới đầu
niềm thương nhớ chỉ thỉnh thoảng ùa đến vào lúc nàng
ăn cơm, nàng căng màn, nàng ngồi xem tivi. Nàng bần
thần, bứt rứt, rồi tìm cách vui đùa với mấy đứa
trẻ hàng xóm cho khuây khoả, cho giảm nhớ thương. Dần
dần thì nỗi nhớ thương cứ đến dồn dập, luỹ
tiến về sự giày vò và bồn chồn chư cào xé tắc
dạ. Dường như bên cạnh nỗi thương nhớ máu mủ, còn
có sự huyền bí xen kẽ; một niềm thần giao cách cảm
linh báo đến nỗi nàng ăn thấy nhạt miệng, ngủ trong
chập chờn ngồi xuống thì thảng thốt, mà đứng dậy
thì không biết là nên đi đâu.
Cuối cùng, không chịu nổi sự xa vắng đứa con yêu
dấu, nàng quyết định sáng sớm mai sẽ đánh điện báo
dì Nhàn đem cháu Nhan lên ngay lập tức. Vậy mà cuộc đời
dường như cố ý chỉ dành cho Nhạn những éo le. Ngay
chiều hôm ấy Nhạn đã nhận được một bức điện báo
từ quê nhà gửi lên với vài chữ ngắn ngủi nhưng
xiết đỗi hãi hùng: Cháu Nhan ốm nặng. Chị về ngay!
Nhạn bối rối sửa soạn "valy thầy thuốc" nước
mắt đầm đìa, vừa bàn giao mọi công tác của viện
cho tập thể khối bác sĩ trực ban, rồi lên xe cấp
cứu, lao nhanh trên quốc lộ I. Anh lái xe đã mở hết
tốc lực. Tín hiệu xanh tím trên đầu xe lấp loè xoay tít
mù tắp, nhưng Nhạn vẫn cảm thấy quá chậm chạp.
Dọc đường nàng mím chặt môi, im lặng không nói gì,
song từ trong sâu thẳm lòng nàng, dông bão đang cuồn
cuộn núi lửa đang sục sôi và trái tim như có trăm nghìn
mũi dao rạch khía.
Trong đêm tối, chiếc xe đang vùn vụt cuốn nuốt
dặm đường, thì bỗng phải dừng phắt lại ở đầu
thị trấn H, nhờ ánh đèn pha sáng quắc rọi chiếu,
Nhạn nhận ra được có khoảng bốn năm người mặc áo
bờ lu trắng đang đứng thành hàng ngang ở trên mặt
đường mà giơ tay chặn xe lại.
Một người có lẽ là bác sĩ trưởng, hấp tấp
chạy lại bên cửa xe, nhanh nhẹn hỏi vọng vào?
- Xe các đồng chí đi cấp cứu phải không?
- Anh lái xe im lặng, dành quyền trả lời cho Nhạn:
- Vâng chúng tôi đi cấp cứu.
- Chúng tôi ở đây có một bệnh nhân hết sức nguy
kịch gần như mất máu hoàn toàn. Các đồng chí có mang
theo các bình máu dự trữ không?
Nhạn nghiêm nghị hỏi:
- Bệnh viện của các đồng chí là ở cấp nào?
- Thưa... cấp tỉnh!
- Cấp tỉnh thì phải luôn có máu dự trữ chứ?
- Có đấy, đồng chí ạ. Nhưng bệnh nhân thuộc nhóm
máu AB cực hiếm, chúng tôi lại không có loại máu ấy.
- Thế thì phải chuyển ngay lên các bệnh viện Trung
ương chứ?
Những người thầy thuốc ở dưới đường người thì
nhún vai, người thì lắc đầu. Người bác sĩ trưởng
buồn rầu nói:
- Không kịp được. Bệnh nhân là một cháu trai bốn
tuổi bị ngã xuống ao. ở dưới ao có cái cọc tre
ngầm đâm thủng động mạch chủ ở đùi cháu. Theo chúng
tôi, cháu chỉ còn thoi thóp được nửa giờ nữa thôi.
Nhạn không thể đắn đo gì nữa. Nàng cắn chặt môi
rồi hỏi:
- Đồng chí vừa nói cháu thuộc nhóm máu AB?
- Vâng. Đã là đồng nghiệp thì đồng chí rõ đấy,
máu AB rất hiếm!
Nhạn gật đầu. Nàng ôn tồn, nhưng dứt khoát như ra
lệnh:
- Vậy thì các đồng chí vào sửa soạn phương tiện
tiếp máu ngay. Tôi sẽ cho máu.
- Chị cũng thuộc nhóm máu AB?
- Tất nhiên. Nếu không có, nghĩa là tôi giết cháu à?
Cần nghiêm khắc phê bình anh về câu hỏi kỳ quặc đó!
- Xin lỗi! Xin lỗi! Chúng tôi cuống quá. Vì cháu trai
đây là con một đồng chí cán bập cấp cao cùng ở
trong ngành y chúng ta, hiện đang đi nước ngoài vắng.
Nhạn hơi gay gắt:
- Anh vào sửa soạn ngay mọi thứ cần thiết. Cao cấp
với thấp cấp lúc này đều cần được cấp cứu như
nhau. Đừng phí thời giờ vô ích. Nào!
Trên hành lang của bệnh viện tỉnh. Nhạn gặp một
phụ nữ trạc ba mươi tuổi đang ngồi ôm mặt khóc. Bác
sĩ trưởng bảo với chị ta:
- Thôi, xin chị đừng tuyệt vọng nữa. May mắn quá,
có nữ bác sĩ đây sẽ tiếp máu cho cháu.
Người phụ nữ nọ nghe nói vội ngẩng mặt và đứng
phắt dậy, tưởng tai mình nghe nhầm, hỏi Nhạn:
- Bác sĩ tiếp máu cho cháu ạ?
- Vâng tôi cũng thuộc nhóm máu AB của cháu.
- Ôi... lạy trời, lạy đất - người mẹ trẻ trung và
rất xinh đẹp vội vàng ôm lấy hai bàn tay Nhạn - Em trăm
nghìn lạy tạ ơn chị. Xin chị cứu lấy con em.
Nhạn không kịp ngắm nét mặt người mẹ. Chị ngửi
thấy mùi nước hoa sực nức, và một khuôn mặt diễm
lệ, quý phái dù hoen nước mắt, vẫn rất xinh tươi màu
son phấn.
Theo bác sĩ trưởng bệnh viện tiến vào phòng cấp
cứu, việc đầu tiên là Nhạn đọc tấm phiếu ghi
bệnh lịch của nạn nhân trong đó có ghi tình trạng
ngộ nạn, nhiệt độ, mạch đập... các thông số đều
rất xấu. Nhạn lẩm bẩm như vậy, và nàng chợt bủn
rủn chân tay, nét mặt có lẽ tái đi khi đọc tên bố
cháu bé là Vũ Tiến Phong. Ôi, Vũ Tiến Phong, ước mơ
của nàng, hạnh phúc của nàng, oan nghiệt của nàng,
bất hạnh của nàng. Cuộc đời sao lại đẩy nàng đến
một cảnh ngộ oái oăm thế này?
Chung quanh Nhạn, mọi công việc chuẩn bị truyền máu
đang diễn ra rất khẩn trương. Đứa bé đang mê man ra.
Xám ngoét, nhưng vẫn thấy rõ là giống cha nó như đúc.
Trong khi Nhạn nằm xuống chiếc giường bên cạnh và
từ từ vén cao tay áo bờ lu của mình, thì bác sĩ trưởng
hỏi Nhạn:
- Chị truyền cho cháu bao nhiêu ạ? Mấy trăm CC?
- 1.800 CC. Nhạn nói kiên quyết.
Tất cả những người có mặt đều rùng mình. Họ nhìn
nhau như bị sét đánh. Thông thường mỗi lần truyền máu,
người ta chỉ cho không được phép vượt quá mức độ
800 CC. Đằng này những 1.800 CC, điều đó gần như đồng
nghĩa với tự sát.
Bác sĩ trưởng lẩm bẩm:
- Thưa chị...
Thấu hiểu nỗi lòng của mọi người, Nhạn ôn tồn
nói:
- Tôi biết là rất nguy hiểm cho tôi, nhưng không
truyền với lượng máu ấy, tính mạng cháu bé sẽ không
cứu được. Vâng, tôi đã liều lĩnh! Các đồng chí hãy
chuẩn bị cho tôi 2 lít glucoza đẳng trương, để sau khi
cho máu, các đồng chí sẽ truyền glucoza cho tôi ngay nhé.
Tuy hiểu ý về phương pháp quá ư bạo dạn của
Nhạn, mọi người vẫn chưa hết bàng hoàng. Điều đó
chỉ có thể xảy ra với chính đứa bé ấy là con của
chị, nếu không, thì thật sự chị là một thiên thần
vĩ đại với một đức hy sinh đầy tính huyền thoại,
không thể có ở cõi trần này.
Nhạn bình thản nói thêm:
- Sau khi truyền máu, có thể tôi sẽ bị choáng và
phải nằm nghỉ suốt đêm nay, các đồng chí dùng xe
đưa ngay cháu bé tới bệnh viện nhi khoa ở Hà Nội,
rồi cho xe quay về đây ngay. Bởi vì sáng sớm mai, tôi
cần có mặt ở nơi xa để cấp cứu một bệnh nhân khác.
Giọng nói trầm ấm và một thần thái đôn hậu từ
người chị toả ra khiến cho mọi người có mặt đều
chỉ biết thầm lặng cảm động, thầm lặng phục tùng,
không một ai có ý kiến gì khác.
Trong khi dòng máu đỏ thắm của Nhạn theo ống dẫn bơm
vào động mạch của cháu bé, người ta thấy Nhạn mỉm
cười, đồng thời nước mắt chị tuôn ra xối xả.
Chị lắp bắp một cách yếu ớt:
- Khi mẹ về đến nhà, liệu có... quá muộn đối
với con không? Con hãy tha thứ cho mẹ, con ơi!
Tất cả vẫn lặng lẽ tiến hành công việc. Không ai
hiểu chị nói điều đó có ý nghĩa gì.
Mãi tới lúc sáng bạch, chiếc xe cấp cứu mới từ Hà
Nội quay về bệnh viện tỉnh. Cùng trong tình trạng thiêm
thiếp và mệt mỏi, váng vất, Nhạn vẫn nhất biết điều
đó. Chị yếu ớt ngồi dậy, khoác áo choàng. Các bác sĩ,
y sĩ của bệnh viện tỉnh yêu cầu chị cứ nằm tĩnh dưỡng
như cũ.
Chị cứ nằm nghỉ, việc cấp cứu một bệnh nhân nào
đó ở dưới xã, chúng tôi sẽ đi thay chị.
Nhạn lắc đầu, nói bằng giọng yếu ớt:
- Không! Trường hợp này, tôi phải đích thân đến
với bệnh nhân.
Nói xong, Nhạn ra hiệu cho anh lái xe dìu chị ra xe. Các
đồng nghiệp vẫn nài nỉ:
- Chị mệt mỏi lắm. Bệnh nhân ở trong địa bàn
tỉnh chúng tôi, chúng tôi có thể làm thay chị.
Anh lái xe lúc này đành phải nói thật cùng mọi người:
- Bệnh nhân là con gái của chị ấy. Chị ấy không
thể không trực tiếp về với con mình.
Lúc bấy giờ mọi người càng sửng sốt, nhìn Nhạn
với ánh mắt trìu mến hơn, khâm phục. Cuối cùng, bác
sĩ Viện trưởng quyết định cử một bác sĩ trẻ, tên
là Viễn đi cùng Nhạn, để dè chừng cho chính sức
khoẻ của Nhạn. Điều này được Nhạn chấp thuận.
Hai giờ sau, chiếc xe cấp cứu về tận ngõ. Cả gia
đình gồm bố mẹ, các em và vài người trong họ mạc cùng
ùa ra đón Nhạn. Nhìn nét mặt căng thẳng của mọi người,
Nhạn biết rằng con gái mình khá nguy kịch. Nhàn kêu lên
với chị gái:
- Sao chị về muộn thế? Mà mặt mũi chị nhợt nhạt
thế kia kìa?
Nhạn không nói năng gì. Nhờ bác sĩ Viễn dìu cánh
tay. Nhạn đi thẳng vào nơi con gái nằm.
Nhìn thấy hai bên mép của con có lấm tấm vết loét
và sờ thấy nước da nóng bỏng của nó. Nhạn hoảng
hốt hỏi:
- Cháu bị lâu chưa?
Bà mẹ ngồi xuống cạnh Nhạn đáp:
- Có dễ đến hơn chục ngày rồi.
Nhàn nói thêm:
- Ngày nào cháu cũng sốt cao, hai mắt cứ đỏ rực lên.
Ngày nào em cũng nhờ y tá xã tiêm giảm sốt.
Nhạn vội vã cởi khuy áo của bé Nhan ra, thấy trên nước
da trong veo như bột miến đao của nó có nổi lấm tấm
những vết mẩn đỏ. Chị luồn tay xuống dưới đại não
và nâng nhẹ đầu con gái lên, thấy gáy nó cứng như
gỗ, không thể động đậy chút nào về cổ và gáy.
Bác sĩ Viễn chăm chú theo dõi từng động tác của
Nhạn, rồi run giọng nói khẽ:
- Chị ơi, có lẽ cháu bị viêm não mủ.
Nhạn gật đầu, rồi phục xuống, ôm lấy con gái khóc
oà lên như mưa gió:
- Khổ thân con gái tôi! Khổ thân con gái tôi! Chú lái
xe đâu? Phiền chú đưa cháu đi ngay!
Không đợi Nhạn nhờ vả, bác sĩ Viễn ắm bé Nhan đã
thiêm thiếp không biết gì nữa, chạy thẳng ra ngoài xe
cấp cứu. Tiếng khóc của Nhạn kéo theo tiếng khóc
của cả nhà. Nhạn bảo với em gái:
- Không kịp nữa rồi! Em lên Hà Nội cùng chị.
Chiếc xe cấp cứu lại phóng như bay về Hà Nội.
Song, quả như Nhạn dự đoán, người ta đã dùng
Penixilin liều cao, dùng Cooctizon, dùng Lumina, dùng Glucoza và
các y bác sĩ thay phiên nhau chăm nom, thay phiên nhau túc
trực suốt đêm ngày mà bệnh vẫn không thuyên giảm, ngược
lại cháu bé còn dần dần bị liệt các dây thần kinh
2, 3, 4, 7, 8. ít hôm sau, trong trạng thái mê man bé Nhan êm
ả qua đời.Sau vài lần đau đớn đến mức hôn mê,
Nhạn dần dần điềm tĩnh trở lại. Chị yếu ớt hơn,
chậm chạp hơn, già đi quá chục tuổi, song ở chị
lại toát ra vẻ đôn hậu, hiền từ phảng phất cả
phong thái của nhà Phật trên gương mặt bầu bĩnh và thương
đau.
Từ nước ngoài công cán trở về, ngài vụ trưởng Vũ
Tiến Phong, vì quá am hiểu chuyên môn, cho nên ngài bàng
hoàng và xúc động vô hạn về phương cách mà người
đồng nghiệp phụ nữ nào đó đã liều lĩnh dùng để
cứu con ngài. Ngài đã cho đăng báo và nhờ đài phát
thanh nhắn tin tìm hỏi người phụ nữ ấy, nhưng tịnh
không một hồi âm.
Nghe vợ ngài và những người ở bệnh viện tỉnh X mô
tả dáng dấp và hình dong của người phụ nữ kia, trong
óc ngài vụ trưởng chợt loé lên một ý nghĩ "Hay là
Nhạn".
Song ngài lập tức gạt bỏ ý nghĩ đó! "Một
phụ nữ phẩm hạnh tồi tàn đến thế, thì không thể
có hành vi cao quý như vậy được!"./.
Nguyễn Dậu