Vào lúc lên đèn thì trời có mưa. Có lẽ đây là cơn
mưa cuối đông, vì chỉ còn mươi ngày nữa là Tết. Gió
từ bãi sông rộng thổi hắt từng làn mưa bụi về phía
chân đê. Tiếng mưa mỏng và nhẹ, như tiếng người thì
thào đâu đó. Cả triền bãi rộng chạy ven đê làng Chùa
chỉ còn lại một ngôi nhà nhỏ. Trong ngôi nhà ấy có
hai người đàn bà đã sống với nhau mấy chục năm nay.
Bây giờ tóc họ đã bạc trắng. Và lúc này họ đang
ngồi trong chái bếp nhỏ ấm áp bởi hơi rơm, lá chuối
khô và lửa bếp. Chiếc mâm gỗ có một vết nẻ to được
đặt trên nền bếp bằng đất lâu ngày cứng lại như
đá. Trên mâm chỉ độc một bát canh dưa nấu tép bốc
hơi nghi ngút. Hai bà lão ngồi ở hai phía mâm đối
diện nhau. Hai cặp đầu gối xương xẩu nhô cao đỡ
lấy hai gương mặt nhn nheo và sạm đen.
- Bà mua mớ tép này của ai? Bà lão ân hỏi và lấy
đũa đảo bát canh.- Mấy đứa trẻ trâu - Bà lão Mật
trả lời - Chúng nó mang vào tận đây.
- Mớ tép này mấy đồng?
- Hai ngàn.
- Bà cứ có tật mua nhiều. Không bảo chúng nó sẻ
lấy một nửa.
- Có dúm tép bằng dúm muối, sẻ một nửa còn lại
chúng nó bán cho ai.
Hai bà lão lặng lẽ bưng hai bát cơm xới vơi như cơm
cúng và nhón nhén ăn.
- Nấu tép dưa phải nấu cho dừ - Bà lão ân càu nhàu
- Xương cứng ê cả răng.- Tép bằng lỗ mũi xương ở
đâu ra.
- Bà còn khỏe răng, chứ tôi sờ mãi chẳng được
một cái.
Hai bà lão vừa ăn vừa lầm rầm những chuyện như
thế. Bên ngoài ngôi nhà mưa vẫn thì thào. Trong tiếng mưa
vẳng lên tiếng chó từ mấy gia đình ở chân đê bên
kia.
- Đấy, tôi nói rồi - Bà lão ân khẽ kêu lên và ho -
Hóc xương cá rồi đấy. Khổ.- Bà cứ khạc mấy cái là
nó ra - Bà lão Mật lo lắng. Bà lão ân đặt bát cơm ăn
dở xuống mâm và quay sang phía khác khạc mấy cái.- Có
khỏi không?
- Có được đâu. Không khéo lại chết vì hóc xương
tép.
- Bà cứ hay dở mồm - Bà lão Mật nói. Và chợt reo lên
- A, để tôi chữa mẹo cho.
Bà lão Mật vội vàng cầm lấy hai chiếc đũa cả dính
cơm và lom khom đến bên bà lão ân.- Bà ngồi im nhé.
Cứ nhắm mắt lại.
Bà lão Mật vừa nói vừa đưa hai chiếc đũa cả cách
đỉnh đầu bà lão ân chừng gang tay. Rồi vừa gõ hai cái
đũa cả vào nhau và vừa lầm rầm như người niệm chú:
"Gần ra, xa vào". Đọc đúng bảy lần thì bà
dừng lại và hỏi:- Được chưa bà?
Bà lão ân không trả lời. Bà vất vả nuốt nuốt nước
miếng. Một lát sau bà nói:- Được rồi. Chả ăn nữa.
Sáng mai đun lại cho kỹ. ăn xong bữa cơm tối, hai bà lão
bỏ thêm cái gốc tre vào bếp và lấy trầu ra ăn. Bà lão
ân lấy một miếng cau tươi đưa cho bà lão Mật.- ở đâu
mà cau tươi thế này? Bà lão Mật hỏi.- Cau từ hôm cưới
con nhà Phấn. Chúng nó nhét đầy cả túi.
- Con nhà Phấn à?
- Con nhà nó chẳng ra đón bà vào ăn cỗ là gì. Bà
ốm bà không đi mà lại còn không nhớ?
Sau đó hai bà lão im lặng nhai trầu. Ngọn lửa ăn
dần vào gốc tre khô. ánh lửa gần gũi và xa xôi chập
chờn trong hai đôi mắt đục mờ.- Thế Tết năm nay định
gói bao nhiêu bánh? - Bà lão ân quay lại phía bà lão
Mật hỏi.- Gói bao nhiêu thì gói. Nhưng vừa vừa thôi. Năm
nào cũng bỏ mốc meo cả.
- Cứ nấu ba chục cái.
- Gớm, bà làm như nấu cho cả làng.
- Cứ nấu thế. Trẻ con trong làng ra chơi thì cho chúng
nó. Rồi... nhỡ có ai về...
Nghe bà lão ân nói vậy, bà Mật từ từ ngước đôi
mắt đục mờ lên nhìn một lúc lâu rồi hỏi khẽ:- Ai
về?...
* * *
Mấy chục năm về trước. Cũng những đêm mùa đông
giáp Tết ở trong chái bếp như thế này. Hai bà lão
ngồi trước bếp lửa và hồ hởi nói với nhau về
chuyện gói bánh chưng. Ngày ấy họ còn trẻ lắm. Cả
hai người mới ngoài hai mươi tuổi.
"Năm nay thế nào hai anh ấy cũng về - Mật thì
thầm - chị ân nhỉ""Tao cũng mong quá - ân nói
như bằng hơi thở - đêm qua tao mơ thấy con gà trống
mổ vào ngón tay út. Mấy năm rồi chẳng có ai về ăn
Tết"."Em phát ốm vì chờ thôi".
"Giá như có đứa con... thì họ bao giờ về cũng
được". "Chị ân ơi - Mật chợt kêu lên và ôm
lấy ân - Mấy đêm trước em cũng mơ. Em thấy anh ấy
về và ... ngay đêm đó...".Nói đến đó mặt Mật
ửng đỏ và đôi mắt Mật vừa lấp lánh vui, vừa bối
rối.
"Đêm đó thì sao" ân lườm mắt, mắng yêu
Mật - "Con khỉ"."Ngay đêm đó em mơ em có
mang. Lúc tỉnh dậy sờ bụng em thấy khang khác. Em sợ
lắm".
"Con này nói chuyện vớ vẩn"
"Thật đấy mà, đến hôm nay em vẫn thấy bụng mình
khang khác như thế - Mật nói và cầm tay ân kéo đặt lên
bụng mình- Chị sờ mà xem. Đấy, chị thấy khác không?"
Vì tò mò, ân đưa tay ấn vào bụng Mật. Và một lúc
sau ân cũng hoảng hốt vì cảm thấy hình như trong bụng
Mật cũng không bình thường."Này... ân thì thào -
Chồng đi vắng, hay mày trót dại...""Chị bảo
dại cái gì?..."
"Có thằng nào nó rủ rê mày không?"
"Không, làm gì có chuyện ấy. Có mà trôi sông"?
"Tôi phải trông nom cô - ân nói - Có chuyện gì thì
tôi và cô cứ là bỏ xóm bãi này mà lên rừng đấy nhé"ân
và Mật đều mồ côi bố mẹ. Và lớn lên lấy chồng,
họ đưa nhau ra xóm bãi lập nghiệp. Rồi một đêm hai
người đàn ông của họ khăn gói theo một đơn vị bộ
đội vượt sông Đáy về phía núi Miếu Môn. Trước khi
qua sông hai người đàn ông dặn: "Hai chị em dọn
về mà ở với nhau. Đến Tết, kháng chiến thành công
chúng tôi về". Từ ngày đó Mật dọn sang ở với
ân. Họ sống như hai chị em ruột với nhau.Và khi Tết
đến, cả hai lại xuống bến rửa lá dong và vo gạo. Má
họ rực đỏ trong gió lạnh cuối đông. Tiếng cười
họ trong trẻo và rạo rực vang trên mặt sông mùa nước
cạn yên tĩnh. Nhất là vào đêm luộc bánh, cả hai đều
thấy hồi hộp lạ lùng. Họ cảm thấy da thịt họ
thấm đầy hơi lửa bếp. Khi bánh chín, họ chọn những
chiếc bánh đẹp nhất, chắc nhất để phần hai người
đàn ông của họ. Nhưng những ngày Tết thường vụt đi
như tên bắn. Cánh bãi không còn tiếng pháo tép của
trẻ con nữa. Và những bầy sáo tháng Giêng đã loáng
thoáng bay về, ân và Mật mang những chiếc bánh đã khô
lá luộc lại. Cho đến khi ở đầu góc bánh đã lấm
tấm mốc xanh thì họ không còn bình tĩnh chờ đợi
nữa. Cả hai cùng khóc. Đêm xuống, hai người đàn bà
trẻ nằm xoay lưng vào nhau trên giường lót rơm và
giấu tiếng thở dài."Chị ngủ à, chị ân " -
Mật thường bắt đầu câu hỏi như thế trong đêm."Chưa".
ân trả lời trong chăn."Sao Tết năm nay các anh ấy
lại không về nhỉ?"
"Có giời mà biết - ân giận dỗi - Chắc chiến
dịch bận""Mai mình cứ luộc lại bánh chị ân
ạ""Luộc bánh thành cháo à. Bỏ ra mà ăn hết
đi"
"ăn làm sao hết những hai chục cái"
Sau những câu chuyện như vậy cả hai chị lại chìm vào
giấc ngủ lơ mơ. Thường sang Giêng gió sông ấm hơn và
đất bãi phả hương phù sa dễ chịu làm giấc ngủ
của họ thường có những cơn mơ. Trong mơ, ân lại
thấy con gà trống tía với chiếc mào đỏ rực, cái
ức rộng, và đôi cựa bóng như gà mổ mổ vào ngón tay
út của mình. Còn Mật vẫn cơn mơ vừa hạnh phúc vừa
lo sợ. Mật thấy người lính trở về và ngay đêm đó
Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật lại dè dặt đặt
tay lên bụng. Rồi Mật mơ hồ lo lắng khi cảm thấy
bụng mình khang khác.Rồi vào một ngày giáp Tết, chồng
ân đột ngột ghé qua nhà. Tiếng gõ cửa gấp gáp trong
đêm làm Mật choàng tỉnh."Ai đấy? Ai đấy?"
Mật quýnh lên hỏi.
"Tôi đây. Bấc đây"
"Giời ơi! Mật lập cập kêu lên - Anh
Bấc..."
Khi cánh cửa vửa mở thì người lính ùa vào ôm lấy
Mật.
"Anh Bấc - Mật hoảng hốt - Mật đây. Em đây mà"
Vòng tay người lính vội rời ra và buông thõng
xuống.
"ân đâu?""Chị ân đi Kim Bôi sáng nay cùng
mấy chị trong xóm, xem có lá dong rẻ hay quýt cam gì đấy
mua về bán chợ Tết. Em ở nhà trông nhà"."Bao
giờ ân về?""Có lẽ mai chị ân về, thế bao
giờ anh đi?"Bấc đứng lặng không trả lời. Gió sông
lạnh thổi xốc vào ngôi nhà tranh bé nhỏ.
"Vào nhà đi anh, để em đốt đống lửa cho
ấm"
Một lát sau ngọn lửa đã chui qua những cành củi khô
và vươn lên.
"Em nấu cho anh bát cơm nhé?"
"Anh ăn rồi. Liệu ngày mai ân có về kịp không?""Chị
ấy sẽ nóng ruột mà về. Sao các anh biệt tin lâu ngày
thế? Nhà em ra sao rồi anh?"
Mật rụt rè hỏi và đợi câu trả lời.
"Sau ngày sang sông, chúng tôi cùng nhau ở một đơn
vị được một tháng. Sau đó mỗi người đi một đơn
vị. Nghe đâu Ngữ đang ở Bắc Cạn. ở nhà không nhận
được tin gì của nó à?""Không - Mật nói như
khóc - Em và chị ân Tết nào cũng mong các anh về. Năm nào
hai chị em cũng gói nhiều bánh...""Mình sắp đánh
lớn. Đơn vị tôi đang chuyển quân lên mặt trận Hòa Bình.
Hai chị em ở nhà có khỏe không?"
"Chúng em thế nào cũng chịu được. Chỉ lo cho các
anh hòn đạn mũi tên. Sao anh về chẳng tin cho chị ân
biết trước?""Đang kháng chiến mà cô cứ làm
như... - Người lính cười. Gió thổi mạnh hơn qua
những tàu chuối ngoài vườn. Sương như xuống dầm dề
trên mái rạ. Ngọn lửa như ngái ngủ cháy lờ đờ trên
củi.
"Anh nghỉ một tí đi, kẻo mệt - Mật nói - Hết
canh ba rồi".
"Cô đi nằm đi. Tôi ngồi đây. Cũng sắp sáng
rồi".
Mật không trả lời. Chị ngồi im lặng nhìn những
mẩu than nhấp nháy như những ngôi sao mùa đông. Giá như
đêm nay ân ở nhà thì ân hạnh phúc biết bao nhiêu. Và
giá như người lính kia là chồng chị. Nghĩ đến đó máu
trong người chị dào lên chảy xiết. Chị thấy mặt mình
nóng rát. Chị nhớ đến cơn mơ thường gặp và chị
muốn khóc."Chúng em ở nhà khổ lắm - Mật thổn
thức - Giá như có mụn con thì đỡ khổ"
"Sắp hòa bình rồi. Chúng tôi sẽ về cả thôi.
Rồi không có sức mà đẻ".
Người lính nói và cười vang. Mật cũng bật cười
theo. Nước mắt chị giàn giụa. Ngọn lửa cuối cùng đã
chui vào đống than đỏ và ngủ vùi trong đó. Mật ngồi
trong bóng tối, miệng lầm rầm: "Chị ân ơi về mau
lên. Anh Bấc đang đợi, chị ân ơi, mau lên".* * *
Cái gốc tre đã cháy hết, hai bà lão vẫn ngồi im
lặng. Hai gương mặt sạm đen và nhn nheo như nằm bất
động trên hai đầu gối xương xẩu. Một con chuột
nhắt bé như hạt mít từ góc bếp bò ra. Nó rón rén leo
trên chiếc mâm gỗ. Rồi bất chợt nó nhảy phóc lên
miệng bát làm chiếc bát ăn cơm đổ kềnh:
- Bà ngủ rồi đấy à? Bà lão ân quay sang phía bà lão
Mật hỏi.- Ngủ đâu mà ngủ - Bà lão Mật mở mắt nói
và lại nhai tiếp miếng trầu còn ngậm trong miệng - ăn
miếng trầu thế mà say say.
- Chiều bà có che kỹ cái chuồng gà không?
- Che rồi. Tôi cho uống cả nước vôi trong. Sương
thế này sợ rù mất mấy con gà.
- Mẹ Phấn nó bảo Tết năm nay đón hai cụ vào nhà nó
ăn Tết. Nó bảo hai cụ sống ngoài bãi như ma ấy.
- ăn uống được gì đâu mà vào. Nó còn con cháu, khách
khứa, thì giờ đâu mà hầu mình. Thôi chết, tôi bỏ quên
cái rổ có cái áo giặt dở lúc chiều.- Bà lú lẫn hơn
cả tôi - Bà lão ân nói.- Chiều đang giặt dở thì bà Mên
tưới trên bãi gọi chuyện. Thế rồi cứ quên mà về.
Tôi phải xuống bến tôi lấy.
- Thôi mưa gió tối tăm thế này, đi rồi ngã ra đấy.
Có cái rổ rách với cái áo nát, ma nó lấy.
Nhưng thấy bà lão Mật cứ khăng khăng đòi đi, bà lão
ân với lấy cái nón đưa cho bà lão Mật và dặn: "Đi
chầm chậm thôi, bà ạ". Trời đêm mênh mang. Bà lão
Mật lom khom xuống bến. Bà đã đi không biết bao nhiêu
lần trên con đường này. Và con đường đã ăn sâu vào
trí nhớ bà.Khi cắp rổ định quay về thì có tiếng cá
quẫy mạnh sát bờ. Một vật gì đó vô hình rơi vào ký
ức bà tựa như cái quẫy của đuôi cá. Và rồi những
vòng sóng kỷ niệm cứ loang ra, loang mãi. Bà từ từ
ngồi xuống nhìn dòng sông trong đêm. Nơi đây, mấy
chục năm về trước bà đã tiễn chồng theo bộ đội
sang sông. Và chính nơi đây, bà đã tiễn Bấc đi trong
lần người lính ghé qua nhà không gặp vợ mình.
* * *
Suốt cả ngày hôm ấy vẫn không thấy ân về - Bao
nhiêu kỷ niệm đều mờ đi theo tuổi tác, nhưng những
đêm như thế vẫn bám dai dẳng trong bà lão Mật - Hôm
ấy, cứ thỉnh thoảng Mật lại chạy lên mặt đê ngóng
về phía xa. Buổi tối ăn cơm xong, Bấc nói:"Khuya tôi
phải đi. Mai ân về bảo tôi vẫn khỏe"."Chỉ sáng
mai là chị ấy về thôi - Mật nói như van - Tối mai anh
hãy đi".
"Không được đâu. Tối nay tôi phải có mặt nơi
đóng quân".
Khoảng chín giờ tối thì Bấc lên đường. Mật
tiễn Bấc xuống bến sông. Khi sát mép nước Bấc quay
lại. Anh đặt tay lên vai Mật. Những ngón tay người lính
như bấu chặt vào vai chị. Mật thấy rét run lên, hai hàm
răng chị va vào nhau lập cập.
"Anh đi nhé - Người lính thì thào - hai chị em ở
nhà thương nhau. Anh và Ngữ sẽ về sớm".
Bấc đi được một tiếng đồng hồ thì Ân về. Nghe
tiếng Ân gọi cửa. Mật run bắn và òa khóc. "Chị
Ân ơi, anh Bấc về, Bấc về".
"Đâu, đâu? Anh ấy đâu?... Đâu?"
"Anh ấy đi rồi. Anh Bấc chờ chị suốt cả đêm
qua. Anh vừa sang sông".
Bó lá dong lớn và sọt quít đồi đổ xuống như người
ngã. "Anh ấy đi lâu chưa? - Ân hổn hển - Anh ấy đi
lối nào".
"Anh Bấc lội qua bến nhà mình". Vừa nói
Mật vừa nắm tay Ân đi như chạy xuống bến. Đến bờ
sông, Ân giật tay chị ra khỏi bàn tay Mật và lội ào
ào xuống nước.
"Chị ơi! Anh ấy đi xa rồi - Mật đứng trên bờ
ôm ngực khóc gọi - Đừng sang sông nữa, chị ơi".
Mật ngồi thụp xuống bờ cát ướt lạnh và bưng
mặt nức nở cho đến tận khi chị nghe tiếng khỏa nước
mệt mỏi vào bờ. Ân rét ướt nghiêng ngả bước lên
bờ. Hai người đàn bà trẻ đứng im lặng trước nhau.
Rồi cả hai lao vào ôm lấy nhau nức nở. Gió sông như
ấm hơn thổi dạt dào qua bãi về phía chân đê. Và đâu
đó thoảng mùi cỏ lên mầm hng hng.
Tết năm ấy, Ân và Mật vẫn lặng lẽ gói nhiều bánh.
Nhưng Tết năm ấy, cả hai người lính của họ vẫn không
về. Sang giêng, hai người đàn bà mấy lần mang bánh
luộc lại và mấy lần nhìn nhau khóc.
Mấy năm sau ngày hòa bình lập lại. Mật nhận được
báo tử chồng. Nhưng Tết đến họ vẫn gói nhiều bánh.
Trong mơ chị vẫn thấy người lính trở về. Và tỉnh
giấc vẫn rụt rè đặt tay lên bụng mình và thấy khang
khác. Nhiều lần Ân khuyên Mật nhận lời lấy một người
đàn ông nào đó. Những lần như thế, Mật chỉ nở
một nụ cười xa xăm và ngơ ngác như một nụ cười
của một người vừa thức giấc trong giấc ngủ trưa. Và
sau đó thì Mật nói với Ân: "Bao giờ anh Bấc về
với chị thì em đi lấy chồng".
** *
Đợi lâu không thấy bà lão Mật về, bà lão Ân sốt
ruột ra đầu ngõ hướng xuống sông gọi:
- Bà Mật ơi! Bà Mật.
- Tôi về đây.
- Đã bảo đêm hôm rồi còn mò xuống - bà lão Ân
cằn nhằn - Già rồi còn thích làm tội thân, tội mình.
Nói vậy nhưng bà lão Ân vẫn đứng lại đợi cho đến
khi bà lão Mật lên đến đầu ngõ.
- Vào đi ngủ thôi bà ạ - Bà lão Ân nói - Tôi đau
hết cả lưng rồi.
Gian nhà nhỏ trong đêm như rộng mênh mông. Hai bà lão
nằm quay lưng vào nhau và thỉnh thoảng lại khúc khắc
ho.
- Bà vẫn nhai trầu đấy à? - Bà lão Ân hỏi.
- Tôi nhai cho hết kẻo phí.
- Nhai thế mà không mỏi mồm.
Đâu đó trên mái nhà có tiếng chuột đuổi nhau rinh
rích. Và từ cỗ áo quan có tiếng mọt nghiến gỗ trèo
trẹo.
- Bà có cầm bao diêm đấy không? Bà lão Ân hỏi.
- Có, làm gì nữa bây giờ?
- Tôi xem con mọt. Có khi lúc mình chết thì mọt cũng
cắn nát cỗ áo ra rồi.
- Nó nằm trong gỗ chứ nó lại chui ra cho bà xem.
Nói vậy nhưng bà lão Mật vẫn lấy bao diêm đưa cho
bà lão Ân. Bà lão Ân bật diêm châm đèn soi cỗ áo
quan. Bà nghiêng đầu nghe ngóng một lúc rồi lấy tay đập
đập vào cỗ áo: tiếng mọt chợt im bặt. Bà đứng bên
cỗ áo quan cho đến khi yên tâm là con mọt không còn dám
cắn nữa thì mới tắt đèn lên giường.
Gần sáng những ngọn gió cuối đông tuy còn lạnh nhưng
đã chơm chớm xuân thổi rạo rực qua ngôi nhà của hai
bà lão. Và bà lão Mật lại mơ thấy người lính trở
về. Nhưng khi nhìn rõ mặt thì bà nhận ra đó không
phải Ngữ mà là Bấc.
* * *
Vào đầu năm 1960, Ân nhận được thư Bấc gửi về,
trong thư anh nói đang đóng quân ở Quảng Bình bên cạnh
một dòng sông đẹp như sông Đáy quê anh.
"Chị Ân ơi - Mật cuống quít - Chị đi vào tìm
anh ấy đi. Đi ngay đi. Mọi việc đồng áng cứ để
em".
Suốt mấy ngày đó, cứ chốc chốc Ân lại mang thư
chồng ra đọc và khóc. Cuối cùng chị quyết định khăn
gói đi thăm chồng.
Nhưng cuộc đời thật trớ trêu. Ân đi được dăm ngày,
thì Bấc về.
"Anh Bấc, anh gặp chị Ân không? - Mật hốt
hoảng hỏi khi chị linh cảm thấy điều không bình thường
- Chị Ân vào Quảng Bình tìm anh rồi".
"Tìm anh hả? Đi bao giờ?"
"Chị Ân đi được dăm ngày rồi"
Nghe Mật nói, Bấc đứng chết lặng. Mãi sau anh mới
nói:
"Người lính nay đây mai đó, tìm sao được"
"Anh Bấc ơi, lần này anh phải ở nhà chờ chị
ấy - Mật nói và khóc - Em không cho anh đi đâu cả. Anh
Bấc ơi! Anh Ngữ hy sinh rồi"
"Ngữ hy sinh rồi ư! Hy sinh bao giờ? ở đâu?""Có
giấy báo tử rồi anh ạ. Hơn ba năm rồi"
Đêm ấy Bấc nói với Mật:
"Sáng sớm mai anh phải đi rồi. Lần này anh đi
rất xa và có lẽ lâu lắm". "Không. Anh phải ở
nhà chờ chị ấy về rồi đi đâu thì đi. Nếu không
chị ấy chết mất."
"Không làm sao khác được Mật ạ. Anh phải đi."
Khoảng canh tư thì Bấc khoác ba lô lên đường. Mật
tiễn Bấc lên đến mặt đê. Bỗng Mật ôm lấy Bấc và
khóc nấc lên.
"Anh Bấc ơi! Em thương chị Ân quá. Em thương anh
hu ... hu ... và thương cả cái thân em nữa. Nếu anh Ngữ
về được một lần thì em đỡ khổ, đỡ ân hận
biết bao. Anh Bấc ơi, sao em không phải là chị Ân, sao
anh không phải là anh Ngữ, hả anh? hu ... hu....".
Bấc không nói được gì. Anh ghì Mật vào lòng. Cả
hai người run lên. Mật vội đẩy Bấc ra và vội vã nói:
"Anh đi đi, anh Bấc, anh đi đi".
Nói xong, Mật chạy nhào xuống chân đê. Chị vừa
chạy, vừa ngã và nức nở gọi tên Ân và tên chồng
chị.
Rồi Bấc cũng không trở về, khi Ân và Mật vừa bước
qua tuổi bốn mươi. Đêm đêm hai người đàn bà thường
xuống sông ngồi khóc. Và Tết lại đến, những ngọn
gió chớm xuân thổi đầm ấm và rạo rực qua ngôi nhà
của họ suốt đêm. Và những ngày giáp Tết là những
ngày họ thường mơ nhiều hơn. Trong mơ có tiếng gà gáy
và tiếng gõ cửa gấp gáp, có ngan ngát mùi lá dong xanh
và hương ấm đậm của gạo nếp đã vo sạch. Họ vẫn
ở lại ngoài bãi sông, mặc dù những gia đình khác đã
dọn vào làng theo quy hoạch của chính quyền xã và để
tránh những năm nước sông lên to. Có một điều gì đó
thiêng liêng và đau khổ đã gắn chặt họ với ngôi nhà
nhỏ và bến sông.
- Này, bà Mật! Bà Mật, ngủ mê đấy à? Bà lão Ân
lay gọi bà lão Mật - Kêu gì mà khiếp thế.
- Tôi ngủ ... mê à? Bà lão Mật ú ớ hỏi - Sáng chưa
bà?
- Còn chán.
- Bà cho tôi mượn bao diêm - bà lão Mật ngồi dậy nói.
Bà lão Mật lục đục tìm đèn và bật diêm. Ngọn đèn
dầu tỏa một quầng sáng vàng ấm trong nhà.
- Bà dậy mà đi.
- Không.
- Già thì phải chịu khó mà đi. Không nhỡ ra quần,
ra áo khai lắm.
- Ôi giời! Bà lão Ân cựa mình và chép miệng - Bệnh
già nó thế, ai mà muốn.
Khi gà trong xóm bên kia chân đê thi nhau gáy ran thì hai
bà lão lại tỉnh giấc. Bà lão Mật lại nhóp nhép nhai
cái bã trầu vẫn ngậm trong miệng khi ngủ.
- Thế bà định Tết này gói bao cái bánh? - Bà lão
Mật hỏi.
- Cứ bảo mẹ Phấn nó mua cho đủ lá gói ba chục cái.
Mình thì ăn là mấy, nhưng nhỡ có ai về...
Nghe bà lão Ân nói vậy, bà lão Mật ngừng nhai trầu
và hơi nghiêng đầu về phía bà lão Ân như định hỏi
điều gì đó. Nhưng bà lại thôi.
Và bên ngoài, những ngọn gió sông đã chơm chớm xuân
vẫn rạo rực thổi qua ngôi nhà nhỏ./.
Nguyễn Quang Thiều