Quá nửa đời người anh chị mới gặp nhau. Âu đó cũng
là chuyện thường tình. Sau hai mươi mốt phát đại bác
vang trời báo tin ngày toàn thắng, có hàng ngàn cặp vợ
chồng cách biệt hàng chục năm đã tìm gặp lại nhau.
Chồng Bắc vợ Nam, chồng vợ trong ngoài song sắt nhà tù
Mỹ - Ngụy, trên rừng dưới biển... ôm nhau mừng mừng
tủi tủi. Thế là may mắn lắm rồi, còn bao nhiêu cặp
vợ chồng cách nhau một thước đất mà gọi hoài có
nghe tiếng nhau đâu!
Anh tìm chị ở Nha Trang, không có, ở Phan Thiết, không
có. Ra Đà Nẵng, mất mười ngày long đong, tất tả ngược
xuôi thì gặp chị ở khu tập thể ban quân quản phường
Minh Hiếu. Chị đang đứng giữa sân, tay ôm một đứa bé
lên hai. Hình như chị đang nói gì với nó. Anh đứng
sừng sững ở lại cổng, ngực như bị kim châm hỏa đập
mạnh. Ngày anh chị xa nhau, hai người nào đã có con...
Nhưng anh đã bước lên - từng bước chậm và chắc.
"Tiến lên đi, không có gì đáng sợ cả ", đó
là khẩu hiệu của riêng anh suốt ba mươi sáu năm mặc
quần áo lính. Chị chưa nhận ra anh - "Lại một ông
nào đến ban quân quản đề nghị, hợp đồng, trách móc,
kiện cáo chi đây". Anh thấy rõ chị lắm. Chao ôi,
chị vẫn trẻ, trắng xanh thế kia.
- Lành! - Anh kêu khẽ.
Chị mở to mắt nhìn. Chị lúng túng đặt đứa bé
xuống đất, vừa sửa lại mái tóc vừa nhìn anh chằm
chằm. Anh dừng lại, cúi đầu xuống sửa lại quai dép
- "Khỉ! Tại sao mình lại làm cái trò này
nhỉ?" - Anh ngước lên.
- Ơ! Trời!
Chị nhận ra anh, kêu lên và đứng ôm mặt khóc. Anh
chạy bổ tới, dang tay ôm ghì lấy chị. Chị bỗng
giật mình đẩy mạnh anh ra. Anh kinh ngạc, ngẩn ngơ...
Chị ngẩng lên: "Ơ, chồng mình kia mà, chồng mình
đó chớ ai!". Thì ra đó là phản ứng tự vệ bản
năng của chị - hai mươi mốt năm ròng có ai ôm ấp
chị đâu! Chị sà vào ngực anh nấc lên: "Anh ơi!
Sao lâu... thế". Ngày chia tay anh hứa với chị chỉ
hai năm là gặp nhau thôi mà...
Anh đưa chị về khu gia binh sư đoàn. Anh là đại tá
tham mưu trưởng sư đoàn. Còn chị, ròng rã hai mươi
mốt năm xa anh, chị vẫn là cấp dưỡng của các binh
trạm 17, 26, 34... Tin anh tìm được chị, chỉ một ngày
sau tất cả cán bộ, chiến sĩ trong đoàn đều biết, đến
chúc mừng. Sư trưởng Hùng, người cùng anh chiến đấu
mười năm nay, đến chơi liên tục chín mười tối
liền. Ông không giấu giếm tình cảm đặc biệt của mình
đối với vợ chồng người cán bộ cấp dưới này.
Một lần, ngần ngừ mãi, ông hỏi anh: "Hỏi thực,
chị vẫn còn có thể... có con chứ?". Anh mỉm cười:
"Còn, anh ạ. Cũng lạ... nhà tôi đã bốn sáu tuổi
rồi!". Sư trưởng nắm hai bả vai anh lắc lắc:
"Tốt quá! Tốt quá!...".
Chị vẫn còn sinh nở được nhưng sức yếu lắm
rồi. Mười sáu năm ở rừng chị bị nhiễm bệnh sốt
rét kinh niên. Da chị xanh nhợt, tóc rụng nhiều, vàng
ợt. Đêm đêm, anh ôm chị vào lòng. Chị lắng nghe
nhịp tim anh còn khỏe không. Anh cũng đã già rồi, năm
nay đã năm mươi bảy tuổi chứ ít đâu. Rất nhiều
lần chị ngước lên, thấy kề sát mình khuôn mặt già
nua của anh, những nốt sần của tuổi già cùng với
mồ hôi cộm lên... Chị ôm anh, sờ thấy da lưng anh trơn
khô - những lớp tế bào chết mỗi ngày một dầy thêm.
Chị thở dài, chỉ một năm nữa, nếu anh chị không có
con, coi như hết. Tuổi sinh nở của phụ nữ mấy ai
tới được năm mươi.
Sáu tháng trôi qua, vẫn chẳng có dấu hiệu gì báo
cho anh chị rằng sẽ có một đứa con. Anh mệt mỏi nhìn
chị mỏng như tờ giấy, ngủ khó nhọc. Một đôi lần
chị kêu chóng mặt, buồn nôn. Và nôn thật. Nôn thốc
tháo. Anh cuống lên, nhưng cũng khấp khởi mừng
thầm....
- Không phải đâu anh ạ- Chị buồn rầu nói: - Em đã
sáu lần ngộ độc chất độc hóa học của Mỹ thả
dạo em còn ở "xanh", từ đó em vẫn hay bị
thế này!
Cổ họng anh nghẹn tắc.
Sư trưởng Hùng vẫn đến thăm anh chị thường xuyên.
Ông hay nói về những bài thuốc bắc "kéo dài tuổi
trẻ, hạn chế tuổi già". Ông tự đánh xe ra viện
17 mời trung tá bác sĩ Lê Giàu, bạn chiếu đấu của ông
thời kháng Pháp, một chuyên gia có tiếng về khoa sản,
vào khám bệnh cho anh chị. Bác sĩ Giàu là một người
hiền lành, đa cảm. Nghe sư trưởng kể lại hoàn cảnh
của anh chị, ông vui vẻ nhận làm một "bác sĩ riêng"
cho chị. Ông tỉ mẩn kê đơn tất cả các loại thuốc
có thể có trong thành phố này để chị uống, gia tăng
thêm sức khỏe. Anh cầm thư giới thiệu và đơn thuốc
của bác sĩ đi lùng khắp nơi và kiếm được không
thiếu một thứ thuốc gì kể trong đơn, kể cả những
thứ thuốc quý hiếm nhất.
Đêm đêm, anh vẫn ôm chị vào lòng. Mỗi đêm trôi
qua chị càng thấy sự bất lực của hai người trước
hy vọng của mình. Có đêm chị đã để tay lên mũi anh,
cố tình đánh thức anh dậy, rồi chị lại nằm ôm anh
khóc. Chị đâu nỡ đầy đọa anh như thế nếu trước
khi chia tay anh kịp để lại cho chị một đứa con. Một
đứa con! Thiếu nó mà nỗi nhớ thương xót xa của chị
về anh suốt bao nhiêu năm đã tăng lên gấp bội. Những
ngày ở rừng, cứ nghe tin có một đoàn cán binh nào
sắp đi qua là chị lại thắc thỏm mong chờ. Mong chờ và
ngồi khóc với bếp lửa rừng. Có một lần, dạo chị
còn cấp dưỡng ở binh trạm 26, nghe tin anh đang nghỉ chân
ở binh trạm 34, chị gói cơm, một mình cắt rừng, đi
suốt hai ngày đêm. Đến nơi, chị kiệt sức và ngất
xỉu đi vì người đàn ông tên Chi đó không phải
chồng chị. Anh ấy cũng có một người vợ xa cách như
chị. Anh ấy đã cầm tay chị nói một câu mà chị không
thể quên được:"Thôi chị về đi. Vui vẻ mà về
chị ạ. Chị cứ coi như đã gặp anh ấy rồi. Và tôi,
tôi cũng coi như đã gặp vợ tôi rồi. Chị ơi! Trong
chiến tranh đôi khi cũng phải có những giả sử huyền
hoặc như thế để mà sống, để mà trụ vững được...".
Chị về, cố gắng níu kéo cái niềm vui "giả
sử" ấy để vượt qua 30 cây số rừng. Cánh rừng
chị đi qua vừa bị chất độc hóa học dội xuống, lá
rừng bắt đầu rụng. Chị chạy sấp ngửa và ngã sấp
bên một con suối. Tỉnh dậy, chị gặp ngay ánh mắt
của người binh trạm trưởng: "Có... gặp không?"
Chị ứa nước mắt, khẽ gật đầu: "Gặp
rồi". Mới đó đã mười một năm... Có lẽ vì
chất độc ma quỷ ấy mà chị không có con chăng? Câu
hỏi đột ngột ập đến cuối ký ức của chị làm
chị bất ngờ ngồi dậy, mồ hôi ướt đầm.
Nhưng cuối cùng chị đã mơ hồ nhận thấy hạnh phúc
đã về với anh chị. Khi đó, chị ngước lên, vẫn khuôn
mặt già nua của anh lấm tấm mồ hôi. Chị rơm rớm nước
mắt, tự nhiên chị khẽ rùng mình. Một cảm giác mát rượi
chạy từ gót chân lên môi chị. Chị níu anh xuống, hôn
đến nghẹn thở và chị òa khóc. Một chút ngơ ngác
của anh. Mặc kệ. Chị rúc đầu vào nách anh, mỉm cười.
Hạnh phúc đã thực sự đến với chị. Nhưng chị chưa
thông báo cho anh hay. Chị phấp phỏng chờ đợi cho đến
khi nó hoàn toàn chắc chắn. Một tháng sau, chị vén áo
lên, thấy hai núm vú của mình đã chuyển màu tím sẫm.
Chị ngắm say sưa bầu vú của mình đang căng dần... lúc
đó chị mới nở nụ cười mãn nguyện. Chị đổ
bệnh, nôn và nhiệt độ tăng cao. Anh phải nghỉ việc
một ngày. Trong sự mệt mỏi, nhức nhối của cơn
bệnh, chị nhận ra đứa con thân yêu của chị đang thành
hình. Đến ngày thứ ba, chị tỉnh dậy, ngồi tựa lưng
vào anh, thì thầm.
- Em... đã... có... mang...
Anh rú lên, ôm chặt chị, hỏi:
- Có đúng không? Xem nào!
- Xem gì kia? Vô duyên - Chị đỏ mặt đẩy anh ra.
Anh ngượng nghịu ngồi bên, ôm vai chị lắc lắc:
- Đúng thế hả em?
Chị không trả lời, lặng lẽ hôn đôi gò má nhô
gầy của anh. Đêm đó, anh ngồi hút thuốc cho đến sáng,
chị giục anh mấy chục lần anh cũng chẳng chịu chợp
mắt.
... Cuối buổi giao ban hàng ngày, anh quay sang nói với
sư trưởng:
- Anh Hùng này, vợ tôi... có thai rồi!
Sư trưởng Hùng ngửa người ra sau:
- Thế hả? Có chắc không? Anh đã kiểm tra chưa?
Anh cười, gãi đầu:
- Tôi biết thế nào mà kiểm tra. Vợ tôi nói thế...
chắc đúng. Một tháng năm ngày rồi...
Ông Hùng đưa tay giật giật cổ áo, mỗi lần xúc động
ông thường làm thế.
- Tốt quá! Tốt quá rồi!
Ông quay sang thông báo "tin mới nhận được trong
ngày" cho các sĩ quan dự giao ban:
- Tin mới toanh: Đại tá Chi sắp có con!
Mọi người ồ lên. Bắt tay. Bắt tay. Cười. Cười râm
ran. Anh cười ứa nước mắt.
Ngay sau đó, khu gia binh râm ran chuyện vợ chồng đại
tá Chi sắp có con. Vợ các sĩ quan kéo nhau đến chia vui
với chị. Chị ngồi lặng lẽ nghe các chị đã có con bày
vẽ cho cách giữ gìn thai: ăn thứ gì, kiêng thứ gì, đi
đứng, ngủ ngáy ra sao... Chị nghe rồi mường tượng
thấy đứa con của mình: khôi ngô, bụ bẫm, nó chập
chững lần thành giường đi về phía ba nó. Chợt nó kêu:
"Pa! Pa" và vẫy vẫy tay nhờ ba nó dắt qua một
quãng khó đi... Tiếng người nói quanh chị nhỏ dần,
quyện lại bồng bềnh trôi mơ màng như một bản nhạc
nhẹ, nhàng, êm dịu...
Đêm khuya, khi chị đã chợp mắt được một lúc,
tỉnh dậy thấy anh đang lục lọi va li riêng của mình
"Tìm gì vào lúc này nhỉ?". Chị nghiêng người
nhìn anh. Anh ngẩng lên, hớn hở:
- Đây rồi!
Anh chìa ra cho chị xem tấm ảnh của anh thời còn bé:
- Thằng con của chúng ta sẽ giống như tôi... như
thế này.
Chị lườm anh:
- Biết là "thằng" hay "con" mà đã...
Anh ngẩn người "ờ nhỉ !" rồi cười xòa.
- Nhưng thế nào nó cũng giống tôi.
Tháng sau, tháng sau nữa... Chị bắt đầu đi lại khó
khăn. Da chị đã xanh lại càng tái xanh hơn. Anh tích
cực bồi dưỡng cho chị. Sư trưởng Hùng tặng chị
một lít mật ong trộn rượu trắng với lòng đỏ
trứng gà. Bác sĩ Giàu vẫn thường xuyên đạp xe đến
thăm thai cho chị. Chị đang sống trong thời kỳ sung mãn
nhất của hạnh phúc thì đột nhiên đổ bệnh. Lần này
nặng hơn, đến nỗi sư trưởng Hùng có đêm phải
thức trắng với anh ngoài hành lang phòng hồi sức. Bác
sĩ Giàu trực tiếp chạy chữa cho chị. Ông nhận thấy
khát vọng của chị đã trở thành nhiệm vụ khắc
nghiệt đối với ông. Bệnh của chị khá trầm trọng.
Không chỉ suy dinh dưỡng, thiếu máu vì tuổi già như
một số ca bệnh thường gặp, chị còn có một bệnh đáng
sợ hơn, đấy là chất dioxin của chất độc màu da cam
đã ngấm toàn thân chị. Tất cả các bảng phân tích hóa
nghiệm về chị đã cho ông khẳng định như vậy. Cố
nhiên điều này thì ông giấu mọi người. Ông bình tĩnh
chống trả quyết liệt với căn bệnh nguy hiểm của
chị. Tin tưởng ngay vào tay nghề của mình, không bao
giờ ông mất hy vọng.
Và rồi chị cũng đã khỏi bệnh. Chị ra viện, tuy có
yếu hơn, vàng vọt hơn. Khi sắp đến ngày sinh nở,
hầu như chị không đứng vững nữa. Anh dành tất cả
thời gian rảnh ở bên chị. Anh trở thành cái nạng
chống thực sự của chị. Mỗi ngày mỗi mệt nhọc,
uể oải hơn nhưng trên nét mặt vẫn không hề giảm đi
niềm hân hoan của một phụ nữ đến cuối kỳ sinh nở
bỗng nhiên có một đứa con.
Đêm. Anh vén áo chị lên, ghé tai nghe tiếng đập
của con mình. Anh nghe một cách nghiêm túc và kiên nhẫn.
Rồi anh nằm xuống, ngó lên cái lục lạc treo ở trần
nhà. Cái lục lạc đã theo anh mười bốn năm nay khắp
tất cả các chiến trường. Một người bạn chiến đấu
trước lúc hy sinh đã trao lại cho anh: "Cứ mỗi
lần thắng trận mày rung lên cho tao nghe thấy, tao
mừng". Anh đã làm theo lời dặn dò chưa lúc nào quên.
Cái lục lạc bằng sừng dê, được chuốt, chạm trổ
bằng bàn tay nghệ nhân, mỗi lần rung lên nghe như
tiếng trẻ con cười. Sau ngày toàn thắng nó được treo
lên ở trần nhà. Ngày mai, thằng con anh - không hiểu sao
anh cứ nghĩ đó là "thằng" - lớn lên, chỉ
cần một tuổi thôi là anh đã giao lại cái lục lạc
cho nó rồi. Nó có nghĩa vụ phải giữ cái lục lạc cho
hết đời mình. Để khi bố mẹ nó đã yên nghỉ dưới
"suối vàng", mỗi lần thành công việc gì, nó
phải rung lên cho bố mẹ nó mừng...
Anh lại nhổm dậy, vén áo chị, ghé tai nghe tiếng con
mình.
- Thôi mà! Chị dịu dàng phản đối: - Anh làm phiền
con quá.
Anh không chịu:
- Yên nào! Để anh xem con nó có ý kiến gì không?
Chị phì cười. Rồi chị cũng tự nhiên tò mò:
- Nó có "ý kiến" gì không?
Anh ngẩng lên, đáp tỉnh khô:
- Không. Nó nhất trí hoàn toàn. Nhưng tại sao anh lại
nghe "te- è, te-è"... hay nó đang thổi kèn?
Chị đạp khẽ vào vai anh:
- Ông già ơi... ma bắt ông đi cho rồi.
Anh cười khà:
- Ngày mai anh sẽ giao cái lục lạc cho nó, nó không
cần phải thổi kèn, mệt.
Và anh ôm hôn chị.
- Lão già này sẽ hỏi vợ cho thằng con lúc nó mười
sáu tuổi.
- Lại "thằng".
- Nhất định là "thằng", lão già này đã
nằm mơ thấy lão và con lão đến nhà bố vợ nó rồi!
*
* *
Ngày đứa trẻ ra đời đã đến. Chị run rẩy bước
vào phòng hộ sinh. Hai nữ y tá dìu chị từng bước
một lên bậc tam cấp. Bác sĩ Giàu đứng chờ ở cửa.
Ông trực tiếp đỡ đẻ cho chị, bởi vì ông biết
chắc đây là một ca đẻ khó. Sau lưng chị là anh, sư
trưởng Hùng và gần sáu mươi sĩ quan cùng sư đoàn.
Họ hồi hộp ngóng theo bóng chị. Bác sĩ Giàu khép
cửa, ông giơ tay chào, ra hiệu cho mọi người "cứ
yên tâm".
Một giờ... hai giờ... ba giờ... Anh đã uống liền
mấy cốc nước đầy. Sư trưởng Hùng thỉnh thoảng
lại đưa tay rung cổ áo. Một vài sĩ quan ghé tai vào khe
hở căn phòng chờ nghe tiếng trẻ khóc. Bốn giờ... năm
giờ... một nữ y tá mở cửa bước ra, lập tức chị
bị giữ lại:
- Ra sao rồi?
- Chị Lành sinh rồi. - Chị y tá mỉm cười, nói run
run - Con trai.
- A, hoan hô.
Mọi người nhảy lên. Sư trưởng Hùng ôm lấy anh
lắc rất mạnh. Anh quay cuồng trong niềm vui sướng tột
độ. Chợt anh nghĩ đến cái lục lạc mà anh đã nhớ
mang theo khi đưa vào viện...
Trong buồng hộ sinh, chị nằm lịm đi sau khi đã hỏi
"trai hay gái" và mỉm cười sung sướng được bác
sĩ Giàu cho biết: con chị là con trai. Đứa trẻ đã được
đua sang phòng hồi sức thai nhi. Người hộ sinh già đang
"tắm cho thai nhi trong bể nước hấp nhiệt. Bác sĩ
Giàu đứng dựa lưng vào tủ thuốc thở dốc. Điều mà
ông cố gạt đi trong tiềm thức có lý của ông đã đến...
Đứa bé là một con - người - dị - dạng! Chân trái cháu
bị bẻ gập ra sau, cứng ngắc. Mặt cháu bị bóp méo đến
ghê gớm: mi mắt trái phình ra rất lớn, kéo xuống bịt
kín toàn bộ gò má. Môi dưới cháu cũng phình to, trệ
xuống quá cằm. Không! Tạo hóa không tàn nhẫn như
vậy. Chỉ có chất độc màu da cam đã ngấm với một
nồng độ rất cao trong cơ thể người đàn bà tội
nghiệp kia, mới gây ra như thế.
Người hộ sinh già làm việc với một thái độ điềm
tĩnh kỳ lạ. Tự nhiên ông thấy ghét người hộ sinh
kia. Ông cảm thấy bức bối, khó thở:
- Nước! Cho tôi ly nước.
Ông kêu to. Một trợ tá từ phòng trực vội vàng
cầm ly nước bước vào. Đi ngang qua đứa bé, chị đứng
sững lại, giật lùi... Choang! Ly nước vỡ tan tành.
Chị ngồi thụp xuống, lặng lẽ ngước lên nhìn bác sĩ
Giàu.
Ông không nói gì, khẽ thở dài, đi về phía cửa
sổ.
Ông mở hé cửa nhìn ra. Ngoài sân, mấy chục người
lính đang quây tròn bên bố của đứa trẻ mới sinh. Anh
đang giơ cao cái lục lạc rung rung, nói như reo:
- Tôi sẽ hỏi vợ cho nó lúc mười sáu tuổi.
Tiếng lục lạc vang lên, nghe như tiếng trẻ con cười./.
Huế, tháng 10 năm 1984
Nguyễn Quang Lập