Mỗi lần ra Hà Nội việc đầu tiên là tôi phải
tới thăm bà cô tôi. Chẳng có quà cáp gì cả, đến tay
không, nhưng vẫn cứ phải đến. Vì bà là cái túi khôn
của tôi mà. Năm nay các con bà sẽ làm lễ mừng thọ
mẹ tám mươi tuổi. Các cụ nói: Năm mươi tuổi hiểu
được mệnh trời. Người tám mươi tuổi lại vẫn minh
mẫn, khôn ngoan, không chừng hiểu được cả then máy
của Tạo hóa. Nói chuyện với bà tôi vẫn trờn trợn
như ngày nào được hầu chuyện cụ Nguyễn. Nghĩa là
vẫn phải uốn lưỡi trước khi hỏi, trước khi trả
lời. Một ngôi nhà đẹp, một cửa hàng tuyệt vời ngay
giữa một đại lộ trung tâm trông thẳng ra hồ Hoàn
Kiếm mà chỉ bày bán lèo tèo mấy mặt hàng sơn mài, tượng
gỗ thì uổng quá, coi khinh thiên hạ quá. Bà cụ cười:
"Anh đã bắt đầu có con mắt thương mại rồi đấy
nhỉ?". Con mắt thương mại thì chả dám nhưng với
con mắt của người bây giờ thì ngôi nhà, nói cho chính
xác hơn là miếng đất, của bà cô tôi cũng phải đáng
giá một triệu..., tất nhiên là triệu đô. Cũng chả
phải do mình đặt giá mà là đại diện các công ty nước
ngoài tới trả giá. Ngày nào cũng có vài nhóm người
tới hỏi nhưng bà cụ chỉ nhã nhặn trả lời: "Tôi
không có ý định bán hoặc cho thuê cái nhà này.
"Cho thuê cũng nhiều tiền lắm. Đã có người hỏi
thuê chỉ mấy chục mét vuông của gian ngoài thôi, mỗi
tháng trả năm ngàn đô, trên mười cây vàng. Vẫn là không,
không bán mà cũng không cho thuê. Tại sao cụ lại gàn
thế? Vì các em anh không muốn thế, cho đến hôm nay chúng
nó vẫn đi làm cho nhà nước, không buôn bán gì cả, không
mánh mung gì cả. Lương tiêu không đủ thì tôi bù. Bán
các mặt hàng vớ vẩn như anh nói nhưng mỗi tháng cũng
kiếm được khoảng trên dưới dăm triệu. Này, dăm
triệu không phải là ít đâu anh nhá! Theo tôi được
biết, từ trẻ đến già cô tôi sống theo một số nguyên
tắc, thời thế có thể thay đổi nhưng cách sống của
bà dứt khoát không thay đổi. Đó là: sống thẳng
thắn, sống lương thiện và sống theo pháp luật hiện hành.
Những năm Pháp tạm chiếm Hà Nội, chú tôi vẫn mở trường
dạy học tư như thời trước, còn cô tôi ấn hành sách
giáo khoa cấp tiểu học do chú tôi soạn. Có một tác
giả đưa tập thơ "Đồi thông hai mộ" bán cho bà.
In tập thơ đó chắc chắn sẽ thu lãi nhiều, bà biết
thế nhưng vẫn từ chối. Vì Nhà xuất bản Nguyễn Du do
bà chủ trương chỉ in có sách giáo khoa, đúng như trong
giấy phép. Năm 56, cán bộ thuế tới kiểm tra kho giấy
của bà để đánh thuế tồn kho, khoảng hai chục
triệu. Chú tôi tính vốn nhát, vui vẻ bằng lòng ngay.
Cho đỡ phiền. Nhưng bà vợ không chịu vì giấy in sách
giáo khoa xưa nay không phải đóng thuế. Đã được
miễn thuế thì làm gì có thuế tồn kho. Bà bướng
bỉnh đến nguy hiểm, ai cũng sợ nhưng bà vẫn thản nhiên:
"Lý của mình đúng, việc gì phải sợ". Quả
nhiên bà đúng thật. Bà luôn luôn đúng vì bà rất
tỉnh táo trong mọi mối quan hệ, chỉ nhận những gì đáng
có, có quyền được có, tuyệt đối không để bị dụ
hoặc về tiền bạc cũng như về tình cảm. Một cái đầu
hơi lạnh, lắm lúc tôi đã nghĩ về bà như thế. Nói
cho ngay, nếu không có cái đầu lạnh làm sao bà giữ
nổi một ngôi nhà quá ngon lành, quá quyến rũ trong bấy
nhiêu năm, không gặp một chuyện rắc rối nào. Cho đến
bây giờ đã sang tuổi tám mươi bà vẫn biết từ chối
những đồng tiền rất hợp pháp ắt hẳn phải có một
tính toán khôn ngoan nào đó. Cái khôn ngoan cao siêu chứ
không phải là khôn vặt.
2
Mùa xuân ở Hà Nội bao giờ cũng đẹp. Với tôi đã
nhiều năm không được sống ở Hà Nội vào mùa xuân
lại càng thấy đẹp. Một chút lạnh trong hơi gió tạt
qua mặt. Một chút mưa bụi bay lây rây như có như không.
Trời hơi tối, mặt đường hơi sẫm nhưng mặt người
và quần áo rét họ mặc cứ sáng bừng lên những mầu
sắc tươi tắn. Đã có mùi son phấn và nước hoa bất
chợt thoảng qua ở một góc phố, trong một đám đông.
Nói nhỏ đi, cười nhỏ hơn, ít nghe những câu chửi
tục, những tiếng đệm tục. Giàu hơn trước nhiều,
sang hơn trước nhiều, cứ cho là bề ngoài thì cũng
vẫn rất đáng mừng. Chỉ có nhà bà cô tôi là ít thay
đổi, hầu như không thay đổi. Vẫn mấy chiếc xe máy
đã cũ, và vẫn còn nhiều xe đạp, loại xe đạp cà tàng
từ những năm nào. Trời nắng các em đi xe máy, trời mưa
đi xe đạp, đỡ phải rửa xe. ăn mặc của bà cụ,
của các em cũng chả có gì sang hơn, như trước đây, ngày
trước với Hà Nội đã là sang, bây giờ là quá thường.
Bây giờ con gái Hà Nội mặc quần chẽn đen, gót xẻ, có
dải buộc dưới bàn chân, mặc măng tô lửng, hoặc đi
bít tất đen dài, quần cộc, áo vét trùm qua mông. Đàn
ông cũng diện lắm, áo vét tông các kiểu, thắt cà
vạt đủ mầu, giầy đen, cứ như họ từ các đại
sảnh bước ra. Không phải đâu, chỉ là quần áo thường
ngày thôi, cũng giống như trước kia họ mặc áo bông
xanh, quần ka ki vàng và đi dép nhựa. Chưa bao giờ tôi
thấy người Hà Nội ăn mặc sang trọng như bây giờ. Chưa
bao giờ tôi thấy phố xá chói lòa những tủ kính,
những bảng hiệu và ánh sáng như bây giờ. Vậy mà
một nhà giàu của Hà Nội có dư điều kiện để thay
đổi lại không chịu thay đổi. Một đại gia đình
gồm hai con trai, hai con dâu, một gái, một rể và những
đứa con của họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn
chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chia ra, bà cụ lại gom
vào. Vẫn rất êm thấm mới lạ chứ. Nếp nhà đã
thắng được tự do của cá nhân sao? Phải nói thêm, cái
nếp nhà này cũng ít ai theo kịp. Người con dâu cả
vốn là con gái Hàng Bồ, đỗ đại học, là một cô gái
kiêu hãnh, tự tin, không dễ nhân nhượng. Ai cũng nghĩ
hai người đàn bà, một già một trẻ, cùng sắc sảo
sẽ rất khó chấp nhận nhau. Vậy mà họ ăn ở với
nhau đã mười lăm năm chả có điều tiếng gì. Người
chị của cô con dâu đến nói với bà cô tôi: "Bác
chịu được tính nó thì con cũng phục thật đấy".
Bà cải chính: "Đúng là tôi có phần phải chịu nó
nhưng nó cũng có phần phải chịu tôi, mỗi bên chịu
một nửa". Bà bảo, con dâu là vàng trời cho, mình
không có công đẻ ra nó, cũng không nuôi nó ăn học ngày
nào, bỗng dưng nó về nhận mình là mẹ, sinh con đẻ cái
cho dòng họ, cáng đáng mọi việc từ trẻ đến già, không
lễ sống nó thì thôi còn hoạnh họe nỗi gì. Bà chiều
quý, và tôn trọng các con dâu thật lòng nên cả hai nàng
dâu đều tâm sự với mẹ chồng: "Con ở với mẹ còn
thoải mái hơn ở nhà với mẹ con". Con rể và con gái
được nhận nhà ở một khu tập thể, nhà chật, lại
xa, con còn nhỏ. Nhưng anh con rể không muốn nhờ vả
mẹ vợ, tự mình cũng thấy không tiện mà người ngoài
nhìn vào càng không tiện. Bà biết thế nên bảo con
rể: "Trong cái nhà của tôi có một phòng dành cho
vợ anh. Của vợ anh tức là của anh. Cũng như mọi thứ
của anh tức là của vợ anh. Chẳng lẽ anh bảo không
phải". Năm ngoái khu phố có yêu cầu bà cụ báo cáo
về nếp sống gia đình cho hàng phố học tập. Bà từ
chối, khi tôi lại thăm, bà nói riêng: "Cái chuyện
ấy ai cũng biết cả, chỉ khó học thôi". Tôi cười:
"Lại khó đến thế sao?" Bà cụ nói: "Trong
nhà này, ba đời nay, không một ai biết tới câu mày, câu
tao. Anh có học được không?" à, thế thì khó
thật. Theo bà cụ, thời bây giờ có được vài trăm cây
vàng không phải là khó, cũng không phải là lâu, nhưng có
được một gia đình hạnh phúc phải mất vài đời người,
phải được giáo dục vài đời. Hạnh phúc không bao
giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm, mà cũng
không nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm
sống, là nếp nhà, ở trong tay mình, nhưng nhận được
ra nó, có ý thức vun trồng nó, lại hoàn toàn không
dễ.
3
Trở lại câu chuyện cũ, tại sao bà cụ không chịu bán
nhà, chia tiền cho các con để họ lập cơ nghiệp riêng?
Lớn rồi thì phải ở riêng, nó thuận lợi với sự phát
triển. Con cái đã trưởng thành, vẫn bắt ở chung, ăn
chung như trại lính, đâu có phải chuyện tính toán khôn
ngoan. Bà cụ nghe tôi nói cười tít cả mắt, ra cái vẻ
mọi sự bà đã tính cả rồi, đâu có đợi một thằng
nhà văn ngây ngô mách nước. Bà nói, hiện nay các con bà
vẫn thích đi làm cho nhà nước bằng cái nghề chuyên môn
đã được đào tạo của mình. Ngoài giờ đi làm thì
bọn nó đọc sách, dạy con học, bù khú với bạn bè.
Họ thích sống như thế và có điều kiện để sống nhàn
nhã như thế. Họ không có óc kinh doanh, không có nhu
cầu phải kinh doanh. Không cần đến tiền thì không nên
một lúc cầm quá nhiều tiền. Đồng tiền do may mắn mà
có, do thời thế đổi thay mà có rất dễ là mầm mống
của nhiều tai họa. Vì người có tiền chưa kịp học cách
tôn trọng đồng tiền, sai khiến đồng tiền. ở cái nhà
này, theo tôi biết, chưa bao giờ họ mua vé số. Cũng không
thờ cúng ông thần bà thánh nào, ngoại trừ ngày giỗ
để anh em con cháu có dịp gặp gỡ nhau. Họ không cầu
gặp may mắn, không săn đón may mắn. Họ chỉ nhận
những cái đáng nhận. Bà cụ vẫn đi lễ các chùa
miếu đền phủ với bạn bè nhưng bà không khấn. Bà cũng
chưa từng xem tướng, xem bói, xin xăm. Ngày chú tôi mất
mọi việc hậu sự chỉ một mình cô tôi lo liệu, không
hỏi han bất cứ ai, không xem giờ xem ngày gì cả. Việc
cưới xin của các con cũng thế. Đưa con gái đi, đón
con dâu về tuyệt đối không có xem tháng xem ngày. Trong
một lần trò chuyện, bà hỏi tôi: "Anh có phân
biệt được người giàu lương thiện và kẻ giàu bất
lương không?" "Trong bao lâu?" "Trong một
lần tiếp xúc", "Thế thì khó!" Bà bảo, bà
vẫn phân biệt được. Những đứa giàu lên do cướp đoạt,
lừa đảo nói chuyện một lúc là biết. Bọn họ khinh
người rẻ của lắm. Họ không tin một ai cả, càng không
tin còn có lòng tốt ở đời. Họ chỉ tin có tiền.
Tiền là quân của họ. Một đội quân giặc cướp,
sẵn sàng tàn phá tất cả, tiêu diệt tất cả để đạt
được những cái đích phù phiếm của chủ nó. Bà nói,
bà là người biết quý trọng đồng tiền từ trẻ tới
già, nhưng mấy năm gần đây bà lại sợ tiền. Nghe
chuyện của thiên hạ mà sợ. Càng ít sờ mó tới tiền
càng tốt. Nó có độc đấy! Bàn tay thương vợ, bàn tay
yêu con, bàn tay nắm bàn tay của bạn bè đếm mãi tiền
nhiễm độc lúc nào không hay, sẽ không còn là bàn tay
của người nữa. Vì lẽ đó mà bà chưa muốn bán nhà.
Các con bà cũng không ỷ eo, nài ép bà phải bán nhà.
Thế là may. Nhưng cái may này còn kéo dài được bao lâu?
Bà vốn không tin vào sự may rủi. Bà chỉ tin vào sự
chuẩn bị của mình, chuẩn bị trong cái khả năng có
thể, chứ liệu hết thế nào được những việc của
chục năm sau.
4
Bữa tôi sắp trở vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi có
lại chào bà. Cũng như mọi lần tôi nói nửa vui nửa
buồn: "Mong cô khỏe mạnh mãi để mỗi lần ra, cô
cháu mình có dịp bàn chuyện thế sự, văn chương".
Bà cụ cười rất hồn nhiên! "Nếu được sống thêm
mươi năm nữa thì vui lắm đấy. Nhưng mà khó". Vì
biết là khó nên ngay từ năm ngoái bà đã làm chúc thư,
phòng khi đột nhiên phải ra đi thì các con đã có cẩm
nang hành động. Làm chúc thư là khó lắm, sống làm sao
chia của làm vậy. Chia khéo thì trai gái dâu rể mãi mãi
là con của mình, mãi mãi là anh em ruột thịt của nhau.
Chia vụng thì xẻ đàn tan nghé ngay tức khắc, càng đông
con cháu càng lắm mối họa. Trước hết bà gặp riêng năm
người con của mình vào một buổi, con dâu con rể không
được tham dự. Nguyên tắc làm chúc thư của bà là công
khai và công bằng, không phân biệt trai gái, trưởng
thứ. Tài sản chia làm sáu phần bằng nhau, năm con năm
phần, mẹ một phần. Phần của mẹ hoặc gửi ngân hàng,
hoặc đem kinh doanh, tùy, số lãi hàng năm lại chia làm sáu.
Con trai đầu phải giữ việc hương khói được nhận
hai phần. Bốn phần còn lại sẽ bỏ vào một quỹ riêng
để chi các việc: Tu bổ nhà thờ, sửa sang phần mộ, góp
giỗ tết với các chi khác và cấp đỡ cho bà con nghèo
của hai họ nội ngoại. Đồ gỗ và đồ sứ trong nhà
thì cho hai con trai. Đồ trang sức của mẹ thì cho ba con
gái. Sau buổi họp bà cụ phân công cho con gái lớn
viết lại chúc thư làm sáu bản, viết tay không đánh máy,
cả sáu người đều ký, mỗi người giữ một bản, có
giá trị trước pháp luật. Từ nay bán nhà hay cho thuê
nhà bà cụ coi như không biết, đám thừa kế cứ theo
nguyên tắc chia sáu mà xử sự. Bà cụ nói xong, nhìn tôi
một lúc lâu rồi bà cười rất ý nhị:- Con người ta
ai ai cũng có phần thiện phần ác. Muốn dưỡng thiện
diệt ác thì trong nhà phải có gia pháp, ngoài xã hội
phải có luật pháp. Trong gia pháp có phần truyền thống
và danh dự của dòng họ, có phần đạo đức của người
trên và nghĩa vụ của kẻ dưới. Gia pháp cũng phải
theo thời mà điều chỉnh, quá ngược với thời thế thì
con cháu khó theo, quá xu mị thời thế thì bỏ mất gốc
rễ. Theo chỗ tôi biết gia pháp của nhiều danh gia vọng
tộc ở Hà Nội đang gặp hồi khủng hoảng. Suốt mấy
chục năm anh dạy các con anh khinh miệt đồng tiền, lên
án tư hữu và những người giàu có đều là phần tử
bất hảo. Bây giờ anh tính sao? Bây giờ các con anh đều
lao vào kiếm tiền, đều nuôi mộng làm triệu phú tỷ
phú trong chớp mắt. Khốn một nỗi chúng lại chưa
từng được ai dạy bảo cái cách ăn ở với đồng
tiền. Đồng tiền vừa là đày tớ vừa là ông chủ,
vừa là bạn đường vừa là giặc cướp, các con anh
biết chọn cách nào? Chúng chỉ biết lựa chọn theo
trực giác, theo kinh nghiệm tức thì, theo lợi ích trước
mắt. Anh nghĩ xem, đã đến thế thì con người và nền
văn minh của con người đã bị chúng gạt khỏi mọi
sự tính toán rồi.5
Mấy hôm trước trời ấm nhưng hơi nồm, chỗ nào cũng
lép nhép nhầy nhụa đến khó chịu. Đêm như có mưa, hơi
nặng hạt thì phải, hạt mưa gõ trên mái ngói nghe rất
rõ. Sáng ra tất cả đã ráo khô, mảnh sân trắng toát,
hè nhà trắng toát, trời khô và lạnh. Cái lạnh của mùa
xuân thật dịu dàng, thở rất dễ, người rất nhẹ,
mặc một cái áo len mỏng, khoác thêm một cái áo ngoài,
đạp xe ra đường nhìn vào cái gì cũng đẹp. Huống
hồ bây giờ Hà Nội lại đang đẹp, mỗi ngày một đẹp
ra, trẻ ra. Lắm lúc nghĩ cũng tiếc đã trót đưa vợ
con vào sống trong Sài Gòn. Tiếc thì tiếc chứ không
thể làm lại được. Một chân đã thõng vào cõi hư vô
rồi thì không nên bắt đầu bất cứ việc gì nữa. Không
còn cả thì giờ để ganh ghét, để hờn giận. Chỉ còn
đủ thời gian để làm lành, có thua thiệt vẫn cứ nên
làm lành. Văn chương làm lành cố nhiên là không hay
rồi, thôi kệ, vì cũng chả còn hơi sức đâu gây sự,
dầu chỉ là gây sự vặt.Tôi đạp xe thong thả dọc
đường Phan Đình Phùng bất chợt gặp một ông già
khoảng tuổi tôi chạy bộ buổi sáng từ đường Cổ Ngư
về. Ông chạy bên kia đường, tôi đạp xe bên này đường,
lại có một thằng cha cưỡi xe Dream chạy chậm cùng
chiều với tôi. Bỗng thấy hắn hét lên: "Chạy
lộn đường rồi! Văn Điển đi lối kia cụ ơi!" Ông
già đứng sững lại, thằng cha vừa hét quay mặt lại
nhìn tôi nhăn răng cười. Chớ có ngạc nhiên! Rác của
Hà Nội đấy! Hàng hóa nhiều tất nhiên rác rưởi
phải nhiều chứ nghèo quá, đói quá lấy đâu ra rác./.
Nguyễn Khải